Đêm 10/6 dầu giảm 5%

Tiếp tục kể lại những câu chuyện đã bị con trâu trắng tố cáo là rác rưởi khiến DHA xoá đi

Câu chuyện cuối tuần 21

Diesel sinh học : đang chờ cơ hội

http://www.rlqh.cn/dt/173.162641.html

Xét từ sản lượng dầu diesel sinh học, các nước (khu vực) sản xuất chính có sản lượng lớn nhất ở EU, tiếp theo là Hoa Kỳ, Brazil có sản lượng lớn thứ ba, Argentina và Indonesia có sản lượng tương tự, và Malaysia có sản lượng thấp nhất.

Từ quan điểm về cơ cấu nhu cầu, EU có mức tiêu thụ nhiên liệu diesel lớn nhất, tiếp theo là Hoa Kỳ, Argentina hiện tại giữ lượng nguyên liệu xuất khẩu lớn nhất. Và Hoa Kỳ, Brazil và Liên minh châu Âu lấy tiêu thụ nội địa làm trụ cột chính.

Đánh giá sản xuất dầu diesel sinh học từ khía cạnh nguyên liệu thô, dầu cọ của Mã Lai và Indonesia được xem như nguyên liệu . Nguyên liệu cho nhiên liệu sinh học ở Brazil và Argentina là dầu đậu nành, nguyên liệu cho nhiên liệu sinh học trong daaiu hạt cải chiếm phần lớn nhất EU (nhưng có xu hướng giảm), dầu diesel sinh học nguyên liệu Mỹ Chủ yếu là dầu đậu nành.

Với sự tăng giá dầu thô, lợi thế về giá cả của dầu diesel sinh học đã dần dần lớn hơn, và nhu cầu dầu diesel sinh học cho nhiên liệu có thể tăng lên. Trong giai đoạn sau, cần chú ý đến những thay đổi chính sách có liên quan ở nước sản xuất chính.

Các yếu tố dẫn dắt chính cho sự phát triển của ngành công nghiệp biodiesel:

  1. Nhu cầu về an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường;

  2. Sự hỗ trợ của các chính sách của chính phủ;

3, so với nhiên liệu truyền thống, nó có lợi thế về giá cả.

I. Cơ cấu cung cầu dầu diesel sinh học ở Malaysia

1.1 Chính sách biodiesel Malaysia

21 Tháng Ba năm 2006 chính phủ Malaysia đã ban hành “chính sách nhiên liệu sinh học quốc gia,” chính sách nhằm mục đích thông qua việc sử dụng năng lượng tái tạo để cải thiện môi trường, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, qua đó ổn định và nâng cao giá dầu cọ. Năm 2007, Quốc hội Malaysia đã thông qua “Luật Công nghiệp nhiên liệu sinh học”, đòi hỏi ngành công nghiệp trồng cây và các phòng ban hàng hóa để thực hiện các nhiệm vụ trộn dầu diesel sinh học.

Với sự gia tăng của dự trữ dầu cọ trong nước và sự suy giảm về giá, chính phủ Malaysia đã giới thiệu tiêu chuẩn B7 vào năm 2015. Để thúc đẩy tiêu dùng trong nước của dầu diesel sinh học, chính phủ Malaysia xây dựng “Kế hoạch Malaysia năm năm thứ mười” (2016-2020), nhằm thúc đẩy tiêu chuẩn trộn diesel sinh học ở Malaysia năm 2020 đạt B15. Tuy nhiên, do thiếu các ưu đãi, tiêu chuẩn B10 ban đầu được hoạch định bởi chính phủ Malaysia vào năm 2017 vẫn chưa được thực hiện. Ngoài ra, các nhà sản xuất ô tô tin rằng nhiên liệu pha trộn vượt quá tiêu chuẩn B7 có thể gây ra vấn đề với động cơ ô tô.

1.2 Cơ cấu cung cầu dầu diesel sinh học Malaysia

Từ năm 2009, sản xuất diesel sinh học của Malaysia đã bị biến động do các chính sách, và phía cầu đã chuyển từ xuất khẩu sang tiêu thụ nội địa. 2017 sản xuất dầu diesel sinh học Malaysia là 480 triệu lít, khối lượng xuất khẩu 150 triệu lít, tiêu thụ nội địa đạt 340 triệu lít, xuất khẩu chiếm 31,25% tổng sản lượng. Bên cạnh đó, USDA ước tính sản xuất dầu diesel sinh học năm 2018 của Malaysia là 470 triệu lít, xuất khẩu 110 triệu lít, tiêu thụ trong nước là 370 triệu lít, như vậy xuất khẩu chiếm 23,40% sản lượng.


Hình 1 : sản lượng dầu cọ của malaixia, lượng xuất khẩu và thị phần trong thế giới
Các dữ liệu trên cho thấy rằng sản xuất biodiesel ở Malaysia đã tương đối ổn định trong hai năm qua, và tiêu dùng trong nước đã chiếm ưu thế. Từ điểm xuất khẩu, dầu diesel sinh học của Malaysia chủ yếu xuất khẩu sang Liên minh châu Âu. dữ liệu của USDA cho thấy trong năm 2016, tổng kim ngạch xuất khẩu dầu diesel sinh học của Malaysia 8.36 vạn tấn, trong đó xuất khẩu sang EU là 6.97 vạn tấn (chiếm 83,47%). Kim ngạch xuất khẩu đến Thụy Sĩ là 1 vạn tấn (chiếm 11,96%), xuất khẩu sang Trung Quốc 0,25 vạn tấn (chiếm 3%). Do đó, việc tiêu thụ biodiesel ở EU có tác động lớn hơn đến xuất khẩu dầu của Malaysia.

Tiêu thụ dầu diesel sinh học của Malaysia chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong sản xuất , nhưng có tiềm năng tăng trưởng lớn. Theo thống kê, năm 2017 sản xuất dầu diesel sinh học Malaysia là 480 triệu lít, lượng quả cọ 42,3 triệu tấn, trong khi sản xuất năm 2017 là 20,5 triệu tấn dầu, tiêu thụ nguyên liệu chỉ chiếm 2 % hoặc hơn trong tổng sản lượng quả cọ malaixia. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tiềm năng sản xuất của Malay, mức tiêu thụ dầu cọ tối đa của Malay có thể đạt 2,2 triệu tấn (khoảng 10% sản lượng quả cọ malaixia ).

Trong ngắn hạn, việc tiêu thụ dầu diesel sinh học ở Malaysia sẽ không tăng đáng kể. Dự kiến tỷ lệ pha trộn dầu diesel sinh học ở Malaysia vẫn sẽ là 7% vào năm 2018 và tiêu thụ biodiesel hàng năm sẽ vào khoảng 370 triệu lít. Đây là điều rút ra của chính phủ Malaysia từ hội nghị về “Nhiên liệu sinh học của Malaysia” được tổ chức ngày 07-08 tháng 8 năm 2017. Hội thảo nói rằng chỉ khi giá thị trường dầu thô đáp ứng > 80 USD / thùng, giá quả cọ là thấp hơn $ 520/ tấn, cùng với các công ty sử dụng dầu diesel sinh học B10 để cung cấp các điều kiện bảo đảm cho các phương tiện sản xuất ô tô chạy bằng điêzen , thì chính phủ Mã Lai sẽ triển khai và mở rộng tiêu chuẩn B10. Do đó, tiêu thụ biodiesel Malay khó có thể tăng đáng kể trong ngắn hạn.

II Cơ cấu cung cầu diesel sinh học của Indonesia
2.1 Chính sách biodiesel của Indonesia

Năm 2015, Tổng thống Indonesia đã ký nghị định số 61: Một quỹ được thành lập để hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp biodiesel trong nước. Quỹ này sử dụng thuế từ xuất khẩu dầu cọ như một nguồn tài trợ để hỗ trợ tiêu thụ biodiesel ở Indonesia bằng cách bù đắp sự khác biệt giữa dầu diesel sinh học và diesel thông thường. Quỹ này do BPDPKS quản lý và Bộ Năng lượng và Tài nguyên Khoáng sản của Indonesia phân phối trợ cấp cho các nhà sản xuất diesel sinh học sau mỗi sáu tháng. Dự án bắt đầu vào nửa cuối năm 2015 và đã hoạt động suôn sẻ kể từ khi thành lập.

2.2 Cơ cấu cung cầu diesel sinh học của Indonesia

Dầu diesel sinh học được sản xuất ở Indonesia sử dụng dầu cọ làm nguyên liệu thô. Báo cáo Năng lượng và Bộ tài nguyên khoáng sản của Indonesia cho thấy, vào năm 2016 sản xuất dầu diesel sinh học của của Indonesia là 36.56 triệu lít; bằng cách giảm số lượng mua, chính phủ Indonesia dự kiến diesel sinh học sản xuất vào năm 2017 là 29 triệu lít. Dựa trên năng suất bình quân, nhu cầu xuất khẩu thấp nhất và với kỳ vọng tiêu thụ nội địa ổn định, sản lượng biodiesel của Indonesia vào năm 2018 dự kiến đạt 33 triệu lít . Xét về năng lực sản xuất, tỷ lệ sử dụng công suất biodiesel ở Indonesia năm 2017 là 25,11%, và sản lượng diesel sinh học tối đa có thể đạt 11.547 triệu lít. Ngoài ra, lượng quả cọ CPO sử dụng cho sản xuất diesel trong năm 2017 là 2,668 triệu tấn, chiếm 6,9% tổng sản lượng quả cọ của Indonesia. Nếu biodiesel được sản xuất hết công suất ở Indonesia, việc sử dụng CPO có thể đạt 10,6 triệu tấn (xấp xỉ 27,5% tổng sản lượng dầu cọ).


Hình 2 : sản lượng cọ, tỉ lệ làm dầu cọ của indonesia

Từ năm 2015, dầu diesel sinh học của Indonesia đã bị chi phối bởi tiêu thụ nội địa và xuất khẩu tương đối thấp. Kể từ khi thực hiện chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp biodiesel trong năm 2015, tiêu thụ biodiesel trong nước ở Indonesia đã tăng lên đáng kể và duy trì ở mức cao trong hai năm qua. Chính phủ Indonesia dự kiến tiêu thụ biodiesel trong nước là 31 triệu lít vào năm 2018, với xuất khẩu 2 triệu lít và xuất khẩu chiếm khoảng 6% sản lượng.

Thứ ba, cung cấp và cơ cấu nhu cầu diesel sinh học của Brazil
3.1 Chính sách dầu diesel sinh học của Brazil

Để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học trong nước, giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu dầu, giảm lượng khí thải ô nhiễm và chi phí y tế liên quan đến, chính phủ Brazil đã tạo ra “Chương trình sản xuất diesel sinh học Quốc gia” vào năm 2004. Năm 2005, Brazil đã thiết lập vị trí của biodiesel làm nhiên liệu dưới dạng luật liên bang. Tỷ lệ pha trộn của biodiesel ở Brazil được đặt ở mức 2% trong năm 2008. Với sự tăng trưởng liên tục của sản xuất diesel sinh học, tỷ lệ pha trộn của dầu diesel sinh học đã dần dần tăng lên.

3.2 Cấu trúc cung cầu diesel sinh học của Brazil

Với sự hỗ trợ của các chính sách của chính phủ, ngành công nghiệp biodiesel ở Brazil đã phát triển ổn định trong hai năm qua. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 sản lượng diesel sinh học của Brazil là 43 triệu lít, 2018 dự kiến đạt sản lượng 48.50 triệu lít. Từ năm 2016 tất cả sản lượng của Brazil được giữ lại cho tiêu dùng trong nước. Năm 2017 sản lượng của Brazil là 42.62 triệu lít. Người ta ước tính rằng tiêu thụ sẽ đạt 48.38 triệu lít vào năm 2018. Từ tình hình sử dụng năng lực, năm 2017 năng lực sản xuất dầu diesel sinh học của Brazil 77.69 triệu lít, công suất sử dụng là 55,3%; năm 2018 là 85.95 triệu lít , công suất sử dụng là 56,4%.

Đối với việc sử dụng nguyên liệu diesel sinh học, dầu diesel sinh học của Brazil sử dụng dầu đậu nành làm nguyên liệu chính. Còn mỡ động vật, dầu hạt bông, vv, là thiểu số. Ví dụ, trong năm 2016, sản lượng dầu diesel sinh học của Brazil từ dầu đậu nành chiếm 76% tổng sản lượng, và sản xuất nguyên liệu thô từ các nguyên liệu thô khác chiếm khoảng 34%. Năm 2017, Brazil đã sử dụng 27.43 triệu tấn dầu đậu tương (33% tổng sản lượng dầu đậu tương) để sản xuất biodiesel, dự kiến tiêu thụ đậu tương năm 2018 sẽ đạt 30.94 triệu tấn (khoảng 37% tổng sản lượng đậu tương).

Thứ tư, cung cấp diesel sinh học và cấu trúc nhu cầu sinh học của Argentina

4.1 Chính sách biodiesel của Argentina

Giữa năm 2014, Quốc hội Argentina thông qua “Đạo luật 23.996”, dự luật quy định về việc dừng thu tiền thuế tiêu thụ 19% rồi 22% với trạm xăng sử dụng dầu diesel sinh học địa phương. Quy định này tiếp tục cho đến khi EU dỡ bỏ thuế chống trợ cấp với Biodiesel của Argentina và các chính sách này đã được gia hạn trong năm 2016 và 2017.

Tháng 4 năm 2016, Nghị quyết số 37 của Bộ Năng lượng Argentina ban hành thêm quy định tỷ lệ bio-ethanol trong xăng lên 12%, thêm tỷ lệ dầu diesel sinh học trong nhiên liệu diesel tăng lên đến 10%. Tuy nhiên, hai mục tiêu này chưa đạt được, trong năm 2016, tỷ lệ hiệu quả của ethanol sinh học là 10,4%, và tỷ lệ hiệu quả của biodiesel là 8,6%. Trong tháng 6 và tháng 7 năm 2017, GOA đã điều chỉnh thuế xuất khẩu đối với dầu diesel sinh học xuống 0% (0,13% trong tháng 5), trong khi thuế xuất khẩu đối với dầu đậu tương là 27% trong cùng kỳ.

4.2 Cấu trúc cung cầu diesel sinh học ở Argentina

Với sự hỗ trợ của chính sách nhà nước, từ năm 2009, sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học của Argentina, sự tăng trưởng nhanh chóng của sản xuất dầu diesel sinh học, nhưng do tiêu thụ trong nước hạn chế, xuất khẩu dầu diesel sinh học Argentina hơn 50% sản lượng. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 sản xuất dầu diesel sinh học của Argentina là 29.40 triệu lít, tăng 116% so với năm 2009 mới có 13.60 triệu lít. Năm 2018 sản lượng diesel sinh học Argentina là 30.50 triệu lít.

Từ tình hình sử dụng năng lực, công suất sử dụng nhiên liệu sinh học của Argentina là tương đối cao. Năm 2017 với tỷ lệ sử dụng công suất la 53%, năm 2018 năng lực sản xuất dầu diesel sinh học của Argentina là 55.50 triệu lít, công suất sử dụng là 55%. Bên cạnh đó, nguyên liệu chính cho dầu diesel sinh học ở Argentina là đậu nành. Sử dụng đậu tương vào năm 2017 là 2,64 triệu tấn nguyên liệu ( tức 33% tổng sản lượng đậu nành), việc sử dụng đậu nành được dự kiến trong năm 2018 là 2.740 tấn nguyên liệu (chiếm 45% sản lượng đậu nành ).

Xét về nhu cầu dầu diesel sinh học ở Argentina, do ảnh hưởng của khả năng tiêu thụ trong nước, tiêu thụ biodiesel trong nước của Argentina chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong sản lượng, trong khi xuất khẩu diesel sinh học chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo số liệu của USDA cho thấy trong năm 2017 mức tiêu thụ nhiên liệu sinh học của Argentina trong nước là 12.40 triệu lít, xuất khẩu 17 triệu lít , tỷ trọng xuất khẩu chiếm 57,82% sản lượng . Khối lượng xuất khẩu diesel sinh học của Argentina năm 2018 dự kiến vẫn sẽ là 17 Triệu lít.

V. Cung và cầu cấu trúc của biodiesel tại Hoa Kỳ

5.1 Chính sách biodiesel của Mỹ

Vào năm 2013, chính sách của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ đã nói rằng dầu diesel sinh học có thể được sử dụng để giúp đáp ứng hạn ngạch nhiên liệu sinh học tiên tiến, từ 2,0 đến 25,1 tỷ gallon. Tỷ lệ pha trộn dầu diesel sinh học Hoa Kỳ tại diesel từ 5% đến 20%, và mức tiêu thụ trung bình của dầu diesel sinh học vào năm 2016 chiếm khoảng 4% tổng tiêu thụ diesel. Vào tháng 3 năm 2017, Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc điều tra chống bán phá giá và đối kháng về dầu diesel sinh học được nhập khẩu từ Argentina và Indonesia. Vào tháng 11 năm 2017, Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng mức thuế chống bán phá giá từ 34% đến 72% đối với nhập khẩu dầu diesel sinh học từ Argentina và Indonesia.

5.2 Cấu trúc cung cầu dầu diesel sinh học ở Mỹ

Với sự hỗ trợ của các chính sách của chính phủ, sản xuất biodiesel ở Hoa Kỳ đã tăng lên nhanh chóng kể từ năm 2011. Đến năm 2017, sản lượng biodiesel ở Hoa Kỳ là 1.594 tỷ gallon, tăng 65% so với năm 2011. Dầu diesel sinh học từ Hoa Kỳ cơ cấu nguồn cung trong nước, dầu diesel sinh học sản xuất trong nước là chính (hai năm gần nhất sản xuất trong nước chiếm hơn 70%). Nhưng kể từ năm 2013 mĩ gia tăng nhanh chóng nhập khẩu nguyên liệu. Ví dụ, vào năm 2016 Hoa Kỳ nhập khẩu nguyên liệu 6,88 Tỷ gallon (28% tổng nguồn cung trong nước), và các nguồn nhập khẩu chính là Argentina và Indonesia.

Tuy nhiên, tháng ba năm 2017 Bộ Thương mại Mỹ công bố nhập khẩu chống bán phá giá và chống trợ cấp điều tra dầu diesel sinh học từ Argentina; tháng 11 năm 2017 Mỹ áp đặt thuế chống bán phá giá hàng nhập khẩu nguyên liệu từ Argentina và Indonesia. 2017 tổng lượng dầu diesel sinh học Mỹ nhập khẩu là 937 triệu thùng, giảm 44% so với năm 2016; EIA dự kiến tổng nhập khẩu nguyên liệu của Mỹ vào năm 2018 và 2019 là 11.90 thùng. Ngoài ra, từ quan điểm sử dụng năng suất sản xuất biodiesel của Mỹ, tỷ lệ sử dụng năng suất trong năm 2017 là dưới 6%, cho thấy tiềm năng sản xuất nguyên liệu của Mỹ là rất lớn.

Nguyên liệu chính cho dầu diesel sinh học ở Hoa Kỳ là dầu đậu nành, dầu bắp và dầu hạt cải dầu. Tổng sản lượng diesel sinh học ở Hoa Kỳ năm 2017 là 1.594 tỷ gallon, trong đó sử dụng dầu đậu tương là 2.825 triệu tấn, việc sử dụng dầu ngô là 716.200 tấn, và việc sử dụng dầu hạt cải là 658.600 tấn. Ngoài ra, một số chất béo động vật cũng được sử dụng.

Xét về nhu cầu đối với dầu diesel sinh học ở Mỹ, dầu diesel sinh học ở Hoa Kỳ bị chi phối bởi tiêu thụ nội địa và xuất khẩu chiếm tỷ lệ tương đối thấp. Ví dụ, vào năm 2016 diesel sinh học Mỹ tiêu thụ trong nước 95,25 phần trăm của tổng cầu, xuất khẩu dầu diesel sinh học chỉ chiếm 4,75 phần trăm tổng nhu cầu.

VI: Cấu trúc cung cầu của dầu diesel sinh học EU

6.1 Chính sách biodiesel của EU

Vào ngày 6 tháng 4 năm 2009, Hội đồng châu Âu đã thông qua gói năng lượng và biến đổi khí hậu của EU. Vào ngày 25 tháng 6 năm 2009, “Chỉ thị năng lượng tái tạo” có hiệu lực. Mục tiêu theo quy định của Liên minh châu Âu là vào năm 2020 số lượng sử dụng năng lượng sinh học trong lĩnh vực giao thông đạt 10%, mục tiêu dài hạn để sử dụng năng lượng sạch cho giao thông, nhà máy điện, trạm sưởi ấm và làm mát trạm là 20 % tổng nguồn cung cấp nhiên liệu.

Vào tháng 5 năm 2013, Ủy ban châu Âu đã ban hành Quy định số 490, áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với dầu diesel sinh học nhập khẩu có xuất xứ từ Argentina và Indonesia. Quy định này có hiệu lực vào ngày 29 tháng 5 năm 2013. Nó áp đặt mức thuế suất 6,8-10,6% đối với dầu diesel sinh học của Argentina và mức thuế 0-9,6% đối với dầu diesel sinh học của Indonesia.

6.2 Cấu trúc cung cầu diesel sinh học của EU

Nhờ sự gia tăng trong xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, sản lượng biodiesel và HVO của EU tiếp tục tăng trong năm 2017. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 việc sản xuất dầu diesel sinh học EU là 15.295 triệu lít (tăng 3,88%), HVO 2570 sản xuất triệu lít (tăng 5,24%); 2018 sản xuất dầu diesel sinh học là 16.12 triệu lít, sản lượng HVO 34.70 triệu lít. Từ tình hình sử dụng năng lực, vào năm 2017 các công suất sử dụng nhiên liệu sinh học EU đạt 60% . Năm 2018 tỷ lệ sử dụng công suất xấp xỉ năm trước. Năm 2017 HVO công suất sử dụng là 74,5% (công suất 34.50 triệu lít), 2018 với Tỷ lệ công suất sử dụng dự kiến là 65,5% (53 triệu lít).

Đối với việc sử dụng nguyên liệu diesel sinh học, nguyên liệu thô của biodiesel và HVO của EU chủ yếu là dầu hạt cải, dầu cọ và dầu tái chế của nhà hàng. Trong năm 2017, dầu hạt cải dầu chiếm 45,43%, dầu cọ chiếm 19,25%, và dầu tái chế của nhà hàng chiếm 18,51%. Hơn nữa, khi việc sử dụng dầu tái chế và các loại dầu và chất béo khác tăng lên, tỷ lệ sử dụng dầu hạt cải sẽ tiếp tục giảm.

Về phương diện nhu cầu dầu tiêu thụ diesel sinh học trong EU là chính, xuất khẩu có tỷ lệ thấp hơn. Nhưng kim ngạch xuất khẩu nguyên liệu trong những năm gần đây tiếp tục tăng. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 xuất khẩu dầu diesel sinh học EU 450 triệu lít (tăng 10%), tiêu thụ trong nước 15.39 triệu lít (tăng 3,35%), tỷ lệ xuất khẩu chiếm 2,9%.

  1. So sánh giá diesel sinh học và giá diesel

Với sự tăng giá dầu thô, lợi thế về giá dầu diesel sinh học đã dần dần nổi lên, và nhu cầu dầu diesel sinh học cho dầu có thể tăng lên. Theo số liệu của USDA, tính đến tháng 4 2018 giá diesel sinh học của Mĩ là 3,02 $ / gallon, trong khi giá nhiên liệu truyền thống của dầu diesel hóa thạch là 3.10 $ / gallon. Như vậy giá dầu diesel sinh học thấp hơn so với giá dầu diesel truyền thống là 0,08 $ / gallon. Bên cạnh đó, những thay đổi chính sách với giá dầu thô Brent tăng lên mức 80 $ / thùng, một số nước (như malaixia) hoặc tăng tỷ lệ pha trộn của gỗ nguyên liệu dùng trong nước, hoặc áp dụng chính sách tập trung vào các nước sản xuất nguyên liệu chính.

Túm váy lại :
Với Indo, giá dầu thô 70 trump/ thùng đã khiến nhà nước ko cần tài trợ cho biosiesel sinh học nữa, do đó mức tăng tỉ lệ pha trộn vào xăng chỉ là vấn đề kĩ thuật, từ cách thức pha chế tới cách đốt của động cơ.

Với Malaixia, giá dầu thô 80 trump/ thùng mới đủ hấp dẫn nhà nước dùng biodiesel sinh học, vì khi đó mới cắt khoản trợ giá

Do đó, khi oil > 80 trump/ thùng thì giá dầu cọ mới tăng mạnh

Chúng ta tiếp tục với những câu chuyện bị con trâu trắng coi là rác rưởi của diễn đàn và xúi DHA xoá đi. Hôm nay và ngày mai theo lịch trình là kể về sắt thép. Sau đó chúng ta sẽ thay đổi và nhắc đến mảng tài chính cho phù hợp với ý đồ mới. Mời bác nào rảnh đọc ạ

Câu chuyện cuối tuần 18 ( cũ)

Ngành sắt thép – năm 2018 yên ổn

  1. Sản lượng thép thế giới
Rank (2017) Country/Region 2017 2016 2015 2014 2013
- World 1691.2 1606.3 1620.4 1670.1 1649.3
1 People’s Republic of China 831.7 786.9 803.8 822.7 779.0
- European Union 168.7 162.3 166.2 169.3 166.4
2 Japan 104.7 104.8 105.2 110.7 110.6
3 India 101.4 95.5 89.6 87.3 81.2
4 United States 81.6 78.5 78.9 88.2 87.0
5 Russia 71.3 70.5 71.1 71.5 69.4
6 South Korea 71.1 68.6 69.7 71.5 66.0
7 Germany 43.6 42.1 42.7 42.9 42.6
8 Turkey 37.5 33.2 31.5 34.0 34.7
9 Brazil 34.4 30.2 33.3 33.9 34.2
10 Italy 24.0 23.3 22.0 23.7 24.1

Còn 10 nước sản xuất quặng sắt hàng đầu là

Rank Country Usable iron ore production (thousand tonnes)
World 2,280,000
1 Australia 817,000
2 Brazil 397,000
3 China 375,000 (estimate)
4 India 156,000
5 Russia 101,000
6 South Africa 73,000
7 Ukraine 67,000
8 United States 46,000
9 Canada 46,000
10 Iran 27,000

Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy sản thép tàu khựa chiếm gần 1 nửa sản lượng thế giới. Vì vậy mọi di biến động ở tàu khựa đều ảnh hưởng tới giá thép chung toàn cầu.

Trong số 2280 triệu tấn quặng sắt, tàu khựa chỉ khai thác 375 triệu tấn. Hàng năm tàu khựa nhập khẩu hơn 1 tỉ tấn quặng sắt, chiếm hơn 60% lượng quặng sắt xuất nhập khẩu nên tác động mạnh đến giá quặng sắt và giá sắt thép.

Giá thép tính theo CNY/tấn

Giá quặng sắt vừa qua có nhiều biến động. Từ năm 2000 đến năm 2014, sản lượng thép toàn cầu gần như tăng gấp đôi lên 1400 triệu tấn, thúc đẩy nhu cầu quặng sắt.

Tàu khựa đã vượt Nhật Bản để trở thành nước nhập khẩu quặng sắt lớn nhất thế giới năm 2003. Năm năm sau, tàu khựa đã nhập khẩu nhiều gấp ba lần hàng xóm Thái Bình Dương. Từ năm 2014, tàu khựa chiếm 60% trong tổng số hàng tỷ tấn quặng sắt vận chuyển đường biển.

Trong khi nhu cầu ở tàu khựa tăng vọt, sản lượng mới tăng chậm và giá quặng sắt, chưa bao giờ vượt quá 50 USD / tấn trước năm 2008, tăng vọt lên mức 190 USD / tấn trong năm 2011.

Phụ thuộc nhiều vào quặng sắt nhập khẩu, các nhà sản xuất thép tàu khựa trở nên quan tâm sức mạnh giá cả bị khống chế bởi 3 công ty Rio Tinto, BHP và Vale - được gọi chung là The Big Three .

Trong năm 2009, các nhà sản xuất Big Three đều tuyên bố riêng rằng họ sẽ ngừng đàm phán các hợp đồng giá hàng năm và bán quặng dựa trên giá chuẩn độc lập.

Kể từ thời điểm đó, Big Three cộng với nhà sản xuất lớn thứ tư Fortescue Metals, cùng nhau chiếm hơn 3/4 lượng quặng sắt được vận chuyển mỗi năm, đã đầu tư hơn 100 tỷ USD để mở rộng sản xuất. Cung tăng cùng với nhu cầu chậm lại từ tàu khựa đã dẫn đến giá cung và giá giao ngay thấp dần kể từ đỉnh 168 trump/ tấn vào năm 2011. Đến 2015, có lúc giá quặng chỉ còn dưới 30 trump/ tấn .

Có những lúc các đại gia quặng đua nhau khoe giá thành cực thấp của mình để hù đối thủ. Cuối cùng đại gia Val đưa ra giá hòa vốn chỉ có 18 trump/ tấn, trong khi ngoài tứ đại gia nói trên, những nhà khai thác mỏ khác ko sao hạ được giá về dưới 50 trump/ tấn. Ngay cả Việt nam cũng vậy. Minh chứng rõ nhất là con đường 7 từ Yên bái đi Lao cai, vào thời đỉnh điểm quặng sắt, xe chở quặng đã băm nát đường 7 dù các lực lượng chwucs anwng ra sức ngăn chặn. Nhưng bây giờ dẫu ko kiểm soát thì cũng chả thấy bóng dáng xe chở quặng sắt nào nữa.

Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tình trạng chuỗi công nghiệp sắt thép từ nhà khai thác quặng tới luyện thép đều lỗ chỏng vó là dư cung mà trước hết là ở tàu. Thế giới yêu cầu tàu khựa giảm sản lượng 300 triệu tấn, nhưng hiện tàu mới vạch kế hoạch giảm 150 triệu tấn cho đến năm 2020. Có điều, ngành sắt thép lỗ quá nên chính tàu khựa đẩy mạnh quá trình này. Đến 2017 đã cắt giảm 115 triệu tấn, có lẽ trong 2018 sẽ đạt kế hoạch cắt 150 triệu tấn. Tuy nhiên chừng đó cũng đủ cho ngành sắt thép , trước hết là ở tàu, làm ăn có lãi.

Trong phần tiếp theo chúng em sẽ tập trung nói về tình hình di biến động giá thép ở tàu và ảnh hưởng tới ngành thép chúng ta.

Uppop

Con tâu điên

Chúng ta tiếp tục phần 2 với câu chuyện về sắt thép

Câu chuyện cuối tuần 18 ( phần 2) ( cũ)

Ngành sắt thép – năm 2018 yên ổn

Vào tháng 12/2017, G20 đã triệu tập một cuộc họp ở Berlin, trong đó có thảo luận về cách giải quyết năng lực thép toàn cầu dư thừa vì lo ngại lan rộng chuyện tàu khựa đang sử dụng thị trường xuất khẩu để bán công suất dư thừa.

Trong hội nghị, tàu khựa cằn nhằn rằng họ là những người trải qua “quá trình đau đớn” về giảm năng lực “trong khi phần còn lại của thế giới chỉ đứng xem”, theo Reuters, nhưng sự thật là phần còn lại của thế giới đã hợp lý hoá sản xuất thép của mình cho thập kỷ vừa qua. Bây giờ là đến thời gian tàu khựa cắt giảm công suất dư thừa ở một mức độ nào đó. Cụ thể là 300 triệu tấn, nhưng tàu khựa mới chỉ chịu cắt 150 triệu tấn.

Cũng trong hội nghị này, tàu khựa phủ nhận và chỉ ra việc chúng nó đã thực thi đóng cửa 100 triệu tấn thép hợp pháp và 120 triệu tấn sản xuất thép bất hợp pháp trong năm 2017. Trong thực tế, mặc dù có khả năng đóng cửa bất hợp pháp - phần lớn là các lò điện hồ quang dựa trên phế liệu - thì năng lực pháp lý của việc “đóng cửa” là một mớ bùng nhùng mù mờ. Phần lớn đó chỉ là đóng cửa vĩnh viễn công suất thép lạc hậu, dạng zoombie không hoạt động. Nhất là đóng cửa 140 triệu tấn thép làng nghề, hoạt động trên cơ sở thu mua sắt phế liệu về nấu chảy rồi đổ khuôn, do đó ko kiểm soát được chất lượng.

Thứ 2 là ở tàu rất phổ biến câu “ trên có chính sách, dưới có đối sách”. Bởi đóng cửa cơ sở thì GDP của địa phương giảm, thành tích cán bộ chủ trì kém khởi sắc. Trung ương muốn đóng cửa thì địa phương đóng lò công suất 1 tấn, nhưng báo lên là đóng 10 tấn, do đó cứu được nhiều lò khác vẫn hoạt động. Chỉ có 1 loại lò dứt khoát phải đóng cửa : chạy bằng than chứ ko dùng điện hồ quang để đốt lò.

Vậy những lò than bị đóng cửa đó đi đâu? For.mosa ở Hà tĩnh là ví dụ điển hình, tức chúng đã xuất khẩu ô nhiễm sang Việt nam, hậu quả chúng ta đã thấy. Bang Miranhão của Brazil cũng vừa tiếp nhận 1 dự án công suất 8 triệu tấn /năm, tổng dự án 2.2 tỏi trump.

Đặc điểm chung của các dự án di cư này là dùng than, ô nhiễm thôi rồi và món đặc sản “chinatown” đi theo dự án. Người mĩ ko thik thú gì với vụ đánh bùn sang ao, với những đất nước có món đặc sản đó, đơn giản là bọn họ đánh thuế, coi như là hàng tàu.

Do chiếm một nửa công suất dư thừa của thế giới, cho dù vào lúc nhu cầu nội địa mạnh mẽ thì công suất đó thường tìm thấy đầu ra tại các thị trường xuất khẩu.

Minmetals cung cấp thêm thông tin cho rằng vào năm 2017 sản lượng thép của tàu đạt 832 triệu tấn, nhu cầu 766 triệu tấn. nguồn cung thép vào năm 2018 dự kiến ​​sẽ 810- 830 triệu tấn, nhu cầu sử dụng 730 triệu ~ 766 triệu tấn.

Trên thực tế, kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của tàu đã đề xuất giảm sản lượng thép đi 150 triệu tấn, trong 2 năm 2016-2017 đã giảm 115 triệu tấn. Quá trình giảm đó được triển khai bằng cách đi kiểm tra phê duyệt công suất những cơ sở đạt yêu cầu về môi trường theo tiêu chí 1:1.25 . Tỷ lệ 1,25: 1 này có nghĩa là mỗi tấn năng lực sản xuất mới muốn được duyệt thì phải được đóng cửa cơ sở nào đó để rút 1,25 tấn công suất cũ , nhất là ở Bắc Kinh, Thiên Tân, vùng đồng bằng sông Dương Tử, Châu Giang và các khu vực khác nhạy cảm với môi trường.

Đứng trước kiện cáo ôm sòm của phía mĩ, tàu khựa đang đẩy nhanh tiến độ các vụ sáp nhập và mua lại trong ngành công nghiệp thép. Chúng có thể được chia thành ba bước, bước đầu tiên là vào năm 2018, sẽ loại trừ năng lực của các cơ sở lạc hậu. Bước thứ hai là năm 2018-2020 thúc đẩy sáp nhập và mua lại giữa các cơ sở nhỏ để giải quyết hơn nữa năng lực dư thừa. Bước thứ ba là 2020-2025, thúc đẩy hợp nhất và tổ chức lại công nghiệp sắt và thép có quy mô lớn.

Điều này có nghĩa là nếu tàu khựa thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch này, đến 2025 ngành công nghiệp sắt thép mới ổn điịnh lâu dài nổi. Còn trước mắt mọi sự ấm lên chỉ là một đợt hồi phục nào đó, sau đó doanh nghiệp sắt thép lăn quay lúc nào ko biết. Bởi chỉ cần trung ương lơi lỏng lúc nào đó, là các địa phương lại cho hoạt động trở lại những cơ sở đã “đóng cửa”.

Bởi một điểm đáng chú là tàu khựa đang mạo hiểm tranh chấp thương mại bằng cách cắt giảm thuế xuất khẩu đối với một số sản phẩm thép từ ngày 1 tháng 1 2018. Các sản phẩm thép cuộn được hưởng lợi nhiều nhất từ những thay đổi đã công bố với mức thuế giảm xuống mức 0%, theo Reuters. Trong khi thuế xuất khẩu thép không gỉ sẽ giảm xuống từ 10% còn 5% , và thuế suất thép tấm sẽ là 10% (giảm từ 15% hiện tại).

Và người mĩ đã hưởng ứng bằng cách tăng thuế sắt thép nhập khẩu.

Như vậy về phần cung, tàu khựa có giảm công suất, nhưng điều này cũng chưa đánh dấu tương lai sán lạn cho ngành sắt thép. Đơn giản vì các nhà máy tàu khựa mới hoạt động 70% công suất. Nếu thấy mùi lợi nhuận, bọn họ đẩy công suất 800 triệu tấn lên gấp rưỡi một cách nhẹ nhàng, Và thế giới sẽ lại ngập lụt với 400 triệu tấn bổ sung đó.

Hơn nữa, kế hoạch giảm 50% công suất cơ sở sắt thép vào mùa đông đã chứng tỏ sự bất lực. Thiên hạ toàn người khôn, cơ sở nào cũng ra sức đẩy công suất lên, tích trữ hàng để cuối đông m, tức sau tết, đem ra bán. Hậu quả là giá sắt thép tháng 3/2018 bị giảm hơn 30% vì ai cũng đinh ninh rằng đến lúc đó sẽ lãi nhớn nên tích trữ sẵn lượng thép khủng.

Còn về phần cầu có gì để hi vọng?

Hiện chính sách BĐS của tàu vẫn chấp chới, nửa muốn kìm hãm cơn sốt BĐS để tránh bong bóng, nửa muốn đẩy nó lên để gỡ cục nợ xấu ngân hàng. Do đó về mặt nhu cầu từ BĐS thì chúng em chưa thấy có gì chắc chắn.

Điều khả dĩ nhất là chính sách “một vành đai, một con đường” . Chính sách này sẽ giúp tiêu thụ được khá nhiều sản phẩm sắt thép. Bởi ở những quốc gia con đường đi qua, đa phần ngành sắt thép chưa phát triển tới mức dư thừa công suất.

Tàu khựa đang dịch chuyển cơ cấu kinh tế, sẽ có hàng loạt cơ sở lọc hóa dầu, hóa khí than, điên tử …. Được triển khai. Đó là nguồn cầu nhớn. Còn về từng mặt hàng sắt xây dựng, thép cán nóng, thép hình …. Thì đi sâu quá nên em ko nhắc tới nữa. Thé nhưng có 1 điểm quan trọng : ngân hàng trung ương tàu vừa kích cầu khi giảm dự trữ bắt buộc. Tiền bơm ra thị trường khiến giới chức các tỉnh đang phải vật lộn để đè giá nhà xuống dù trong bụng họ thik điều đó. Với đà bơm tiền như thế, sóng BĐS chưa bên tàu chưa tắt ngay trong 2 năm, và ngành sắt thép hưởng lợi từ đó.

Vì thế có một điều khá chắc chắn : năm nay ngành sắt thép tàu đang có lãi, do đó ngành sắt thép chúng ta sẽ có 2 năm 2018-2019 yên ổn. 2018 thì chắc rùi, còn 2019 cũng khá sáng lạn. Làm thế nào để nhìn thấy mây đen đang kéo tới với ngành sắt thép chúng ta? Hãy nhìn sang sàn thượng hải. Nếu giá sắt thép bên đó > 3600 CNY/ tấn, chúng ta còn ăn ngon ngủ kĩ. Một khí giá < 3600 CNY/ tấn, các cơ sở sắt thép tàu khựa lập tức lại nhấp nhổm tìm cách xuất khẩu sản phẩm đi đâu đó. Và nhờ ơn ai đó, Việt nam chúng ta sẽ trở thành cái bị để chứa đám rác rưởi dư thừa đó.

Còn về các cty ngành sắt thép của chúng ta thì nhiều bác chém rùi, em ko muốn cầm đèn chạy trước ô tô nữa. Chỉ nhắc 1 điều : 1 doanh nghiệp sẽ dễ bị tổn thương nhất vào lúc nó vừa khánh thành cơ sở sản xuất của mình.

Ngày hôm qua có 1 tin khá quan trọng với ngành sắt thép. Đó là trung quốc dỡ bỏ hạn chế niêm phong với các quĩ REIT bất động sản. Chỉ với 9 quĩ REIT mà số tiền được gỡ niêm phong đã là 11.253 tỏi CNY, chiếm 31.35% số tiền bị đóng băng. Việc bơm trở lại 1800 tỉ đô này là liều thuốc khá quan trọng với thị trường BĐS sản trung quốc, nó là bước tiếp theo các biện pháp hành chính dỡ bỏ kiềm chế BĐS tại trung quốc

2 Likes

Cảm ơn bác

chúng ta lại tiếp tục với 1 topic nữa bị con trâu trắng cho là rác rưởi của diễn đàn nên xúi DHA xoá đi.

Câu chuyện cuối tuần 24 ( cũ)

Đường cong lợi suất dẹt ( Phần 1 : báo hiệu nguy cơ)

Trước khi đi vào câu chiện đường cong lợi suất, chúng em xin nêu 1 đặc tính hay ho của media quốc tế : đó là tính nhất quán. Media rất ít khi thay đổi xu hướng của mình, các cây bút cũng vậy. Ví dụ về giá oil, Reuteurs có thánh Kemp chuyên bìm bịp và 1 cây bút khác chuyên chim nhợn. Khi nào cho rằng giá oil tăng, Reuteurs đang bài của thánh Kemp. Khi nào muốn phán giá oil sắp giảm, Reuteurs đang bài của tác giả kia

Rất hiếm khi có cây bút nào thay đổi giọng của mình.

Đứng về trình độ thì quả là bọn họ kém xa các nick nổi tiếng của f3một9, sáng ra hô VNI giảm, đã chốt lãi hết rồi. Mở cửa thấy VNI tăng, vậy là cao thủ liền khoe đã kịp thời full margin. Đến chiều VNI giảm, hết phiên cao thủ đã lại show tài khoản bán hàng lời được 1 mớ. Quả là tài ba nha.

Quay trở lại đường cong lợi suất dẹt, một đề tài vừa qua được nhiều cây bút tô vẽ tranh đủ màu sắc. Có thể nói các chủ top đó biết thừa thực trạng ra sao, nhưng một khi được đặt hàng viết chim nhợn thì bọn họ hót véo von, và rồi cứ chim nhợn cho đến khi nào suy thoái hay khủng hoảng nổ ra. Và việc của media cũng chỉ đơn giản là đăng những topic đó.

Vậy đường cong lợi suất dẹt đi đã báo hiện nguy cơ gì?

Đầu tiên xin điểm qua vài khái niệm

Đường cong lợi suất là một đường vẽ biểu đồ chênh lệch mức lãi suất giữa trái phiếu kho bạc kỳ hạn dài ( thường là 10 năm ) và trái phiếu kho bạc kỳ hạn ngắn ( thường là 2 năm).

Đường cong lợi suất dẹt là đường cong lợi suất trong đó có sự khác biệt giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn khá nhỏ.

Đó là bởi vì lợi suất trái phiếu ngắn hạn tăng nhanh hơn nợ dài hạn. Nợ ngắn hạn, đặc biệt là lợi suất trên nợ công hai năm, phản ánh kỳ vọng của thương nhân về việc tăng lãi suất của Fed. Nợ dài hạn, chủ yếu là lãi suất trái phiếu kho bạc 10 năm, phản ánh sự tự tin của thị trường trong hiến pháp kinh tế trong tương lai và mức lạm phát.

Có ba hình dạng cơ bản mà đường cong lợi suất có thể thực hiện, mỗi hình dạng có ý nghĩa khác nhau về tăng trưởng kinh tế.

Đường cong lợi suất bình thường, hướng lên trên, đường cong lợi suất như thế xuất hiện khi một nền kinh tế đang phát triển và các nhà đầu tư tự tin. Trong một nền kinh tế đang phát triển, các nhà đầu tư yêu cầu một khoản phí bảo hiểm bổ sung (lãi suất) cho trái phiếu đáo hạn dài hơn. Điều này là hợp lý xem xét có nhiều rủi ro liên quan đến việc có tiền gắn liền với thời gian dài hơn. Nền kinh tế lành mạnh hầu như luôn luôn có một đường cong lợi suất dốc lên, mặc dù lãi suất tạo nên đường cong đó có thể khác nhau đáng kể từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.

Đường cong lợi suất dẹt cho thấy các nhà đầu tư không được bù đắp thêm rủi ro cho trái phiếu đáo hạn dài hơn. Đây là một dấu hiệu cảnh báo rằng nền kinh tế đang bị cưỡng ép; các nhà đầu tư kỳ vọng tăng trưởng chậm và các chỉ số kinh tế đang gửi tín hiệu lẫn lộn.Khi các nhà đầu tư mua và bán trái phiếu để làm phẳng đường cong lợi nhuận, họ đang chứng minh thông qua hành vi của họ rằng họ đang lo lắng về triển vọng của nền kinh tế. Kết quả là, họ thích có tiền của họ gắn lên lâu hơn trong các mục đầu tư an toàn, và nhu cầu mở rộng kinh doanh ít hơn .

Đường cong lợi suất dẹt có thể phát triển thành đường cong lợi nhuận “đảo ngược” đáng sợ khi triển vọng kinh tế rất ảm đạm. Khi đường cong lợi suất đảo ngược, nó cho thấy thời điểm kinh tế khó khăn phía trước. Logic đi như thế này: Nếu tôi lo lắng nền kinh tế sẽ sụp đổ, tôi muốn tìm cách an toàn để bảo toàn vốn của tôi. Nếu tôi nghi ngờ giá cổ phiếu giảm, và lãi suất giảm, tôi sẽ cố gắng để khóa vốn của tôi đi trong trái phiếu dài hạn như một cách để đi ra khỏi cơn bão. Khi ngày càng có nhiều nhà đầu tư làm điều này, nó sẽ khiến giá trái phiếu đáo hạn dài hơn và lợi suất giảm. Những nhà đầu tư tương tự sẽ tránh xa các trái phiếu ngắn hạn, có thể phải được tái đầu tư trong thời kỳ suy thoái. Sự thiếu hụt nhu cầu này khiến giá trái phiếu ngắn hạn giảm và lãi suất tăng.

Hình1 : đường cong lợi suất dẹt ra

Nhìn vào hình 1 chúng ta thấy mức chênh lệch giữa đường cong lợi suất dài hạn và ngắn hạn đang thu nhỏ lại ( tức dẹt ra) . Các cột đen là thời điểm xáy ra suy thoái và trước mỗi lần suy thoái như vậy thì đường cong lợi suất đều có bước cắm đầu lao xuống rồi đảo chiều.

Đường cong lợi suất đề cập đến lãi suất ngắn hạn và dài hạn. Đây có thể là mục tiêu quỹ liên bang hiện tại mà Ủy ban Thị trường mở dự trữ liên bang (FOMC) kiểm soát và được gọi một cách thông tục là lãi suất hiện hành; rộng hơn, nó đề cập đến sản lượng trên chứng khoán Kho bạc trong một vài năm. Trong bối cảnh lúc này, nhiều người tham khảo 2 năm hoặc 3 năm (mặc dù một số đi ra xa đến 5 năm).

“Kết thúc dài” của đường cong lợi suất đề cập đến lãi suất dài hạn. Đây thường là lãi suất trái phiếu kho bạc 10 năm, đôi khi trái phiếu kho bạc 30 năm (còn được gọi là “trái phiếu dài”).

Đối với một số bối cảnh, trước khủng hoảng tài chính, người ta thường tin rằng Fed kiểm soát ngắn hạn của đường cong lợi suất, trong khi đường cong lợi suất dài hơn phản ánh tiềm năng dài hạn của nền kinh tế và chạy lâu hơn kỳ vọng lạm phát. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính, có rất nhiều ý kiến ​​cho rằng mức độ nới lỏng định lượng của Fed (QE) đã ảnh hưởng đến lãi suất dài hạn.

Xin nhắc lại , đường cong lợi suất dốc khi lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn;nó “phẳng” khi chúng giống nhau; và đường cong lợi suất được đảo ngược khi lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn.

Trong một mô hình ngân hàng cổ điển, các ngân hàng nhận tiền gửi ngắn hạn để thực hiện các khoản cho vay dài hạn. Như vậy, khi đường cong lợi suất dốc, các ngân hàng có nhiều tiền cho vay hơn thì càng kiếm được nhiều tiền hơn (giả sử người vay của họ không mặc định); khi đường cong lợi suất phẳng và khả năng đảo ngược, lợi nhuận có thể bị vắt và có khả năng trở thành tiêu cực. Đó là một chút phức tạp hơn vì người vay tư nhân trả một tỷ lệ cao hơn so với có sẵn cho chính phủ. Đường cong lợi suất ngược có thể cho thấy Cục Dự trữ Liên bang muốn làm chậm nền kinh tế.

Trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007, đường cong lợi suất thực sự dốc lên, không làm phẳng.

Tuy nhiên, nếu lịch sử là bất kỳ hướng dẫn nào, sự cân bằng của xác suất dường như gợi ý rằng đảo ngược sẽ xảy ra một lần nữa trước cuộc suy thoái tiếp theo. Nhưng điều đó không có nghĩa là đường cong lợi suất phẳng là dấu hiệu cảnh báo sắp xảy ra. Thay vào đó, trong bối cảnh ngày nay, người ta tin rằng một đặc điểm tốt hơn có thể là đường cong sản lượng phẳng là một sự phản ánh rằng Fed tin rằng hệ thống phanh nên được áp dụng (ngay cả khi họ muốn làm như vậy ‘dần dần’) cho một nền kinh tế mạnh.

“Nó sẽ kết thúc trong một cuộc suy thoái? Tất nhiên. Xác suất suy thoái là 100% “ như CEO Jamie Dimon của JPMorgan đã từng châm biếm “ câu hỏi không phải là liệu một cuộc suy thoái sẽ xảy ra ko mà là khi nào, 18 tháng nữa hay 18 năm nữa.”

Trong bối cảnh trên, chúng ta thấy đường cong lợi suất dẹt (không bị đảo ngược) như một chỉ số tích cực cho chu kỳ kinh doanh trong khoảng 6 tháng.Độ dốc của đường cong lợi suất là một chỉ số về nơi chúng ta đang đứng trong chu kỳ kinh doanh.

Vậy tại sao đường cong lợi suất thay đổi hướng trước một cuộc suy thoái

Vì khi sự bùng nổ tăng trưởng đã chín muồi và sắp kết thúc, sẽ có sự tranh giành tài trợ ngắn hạn bổ sung cho a) các dự án hoàn chỉnh được bắt đầu khi điều kiện tiền tệ dễ dàng hơn và b) giải quyết tình trạng thiếu tiền đã phát sinh do các dự án đã hoàn thành không phân phối dòng tiền dự đoán. Điều này làm tăng áp lực lên lãi suất ngắn hạn liên quan đến lãi suất dài hạn, và có thể, mặc dù không nhất thiết, khiến đường cong lãi suất bị đảo ngược.

Thế nhưng ko phải lần dẹt đi nào của đường cong lợi suất cũng dẫn đến suy thoái. Vậy những lần nó cắm đầu lao xuống có ý nghĩa gì? Vì thế người ta nhìn đến một họ hàng của nó : đường cong lợi suất tư.

Đường cong lợi suất ít được biết đến hơn hay nhìn vào sự chênh lệch đầu tư trên nợ của công ty . Điều này được gọi là “đường cong lợi suất tư”.

Hình 2 : Đường cong lợi suất tư

Đường màu đỏ trên hình 2 là đường cong lợi suât, còn đường màu đen chính là đường cong lợi suất tư .Đường cong lợi suất tư cung cấp nhiều thông tin hơn đường cong lợi suất công cộng. Nhưng sự đảo ngược của nó cũng không tự động có nghĩa là chúng ta đang tiến vào suy thoái.

Đường cong lợi suất tư đã có những nghịch đảo mà không dẫn đến suy thoái, nhưng lại dự đoán rất tốt về bất ổn tài chính. Khi người ta thấy sự đảo ngược đường cong lợi suất trong đường cong lợi suất tư, đó là một cảnh báo về vấn đề tài chính phía trước. Nó đã cảnh báo về bất ổn kinh tế châu Á 1997, bong bóng dot.com 2000. Và như chúng ta thấy hiện tại, các chiên za lại đang cãi nhau như mổ bò xem đây là loại nguy cơ gì. Khủng hoảng của thị trường mới nổi hay khủng hoảng nợ nước Ý ? Thời gian sẽ trả lời.

Ngày mai chúng em post phần 2 : Chỉ xích thiên nhai

tiếp tục với các topic bị con trâu trắng cho là rác rưởi và xúi thằng DHA xoá đi

Câu chuyện cuối tuần 24 (cũ)

Đường cong lợi suất dẹt ( Phần 2a : Chỉ xích thiên nhai)

Như trong phần 1 chúng em đã nêu, đường cong lợi suất đang dẹt ra. Chênh lệch giữa lãi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 5 năm và 30 năm thấp ở mức 26,2 điểm cơ bản, mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007. Chênh lệch lãi suất giữa trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm và 10 năm giảm xuống còn 41,0 điểm cơ bản, mức thấp nhất kể từ tháng 9 năm 2007.

Chênh lệch 41 điểm tức là FED chỉ cần tăng lãi suất thêm 2 lần nữa, mỗi lần thêm 25 điểm thì đường cong lợi suất lập tức đảo chiều. Chỉ cần suy tính như vậy là vô số cao thủ nhảy ra phán sắp suy thoái. Lại thêm đường cong lãi suất tư cũng đi vào lãnh thổ âm nữa nên dàn đồng ca suy thoái càng thêm đông đảo. Có thể phân chia bọn họ thành mấy nhóm

  • Những người thực lòng tin rằng sắp suy thoái chỉ vì thời gian tăng trưởng đã quá dài

  • Những người vì lí do gì đó ( quĩ hưu trí, quĩ các nước , ….) đang nắm trái phiếu ko bán được, lãi suất tăng thì lợi nhuận của bọn họ giảm

  • Người của giới tài chính ngân hàng : nếu FED nâng lãi suất nhanh, miếng bánh của bọn họ nhỏ đi. Chính đám này đã vin vào cớ lương tăng nhanh để đạp cho DJ gục sấp mặt hồi đầu tháng 2 nhằm làm cho tân chủ tịch FED biết rằng bọn họ ko thik FED tăng lãi suất 4 lần trong năm 2018

  • Các tay chơi đã đặt cửa trái phiếu

  • Những người đã dùng sóng Elliot để chứng minh DJ đã hết đà tăng trưởng

Nhưng cho dù bọn họ thực lòng tin rằng suy thoái sẽ đến sau 12 tháng hay giả vờ tin như vậy thì chúng em vẫn nói rằng : suy thoái là chuyện chỉ xích thiên nhai, tức nhìn như ngay trước mắt mà thực tế lại đang xa tận chân trời.

Lí do đầu tiên có thể đưa ra là FED . Nếu như FED nghĩ rằng suy thoái sẽ đến trong vòng 24 tháng nữa thì đố FED dám tăng lãi suất 4 lần trong 2018 và 3 lần trong 2019. Tội danh làm đảo chiều đường cong lãi suất thì FED ko gánh nổi.

Có nhiều lí do để FED nâng lãi suất, trong câu chuyện tuần 23 chúng em đã đề cập. Trước hết là giá nhà ở mĩ đã đạt độ cao như trước khủng hoảng tài chính. Nếu khi thiên hạ đã điên cuồng lao vào đầu cơ lướt sóng nhà thì dẫu tăng lãi suất cũng vô dụng. 17 phiên liên tiếp FED nâng lãi suất ngay trước khủng hoảng 2008 đã chỉ ra điều đó. Phải nâng lãi suất trước khi thiên hạ phát rồ với việc đầu cơ nhà thì mới có tác dụng ngăn chặn, cho nên việc tăng lãi suất lúc này là tất lẽ dĩ ngẫu.

FED nâng lãi suất thì cũng có tác dụng lùa tiền từ kênh trái phiếu chảy sang kênh cổ phiếu, qua đó kéo dài đà tăng trưởng, ngăn chặn suy thoái dù cho đường cong lợi suất đã dẹt ra mỏng như lá lúa.

Đường cong lợi suất trước hết dẹt ra do lãi suất ngắn hạn tăng. Sự gia tăng của tỷ lệ ngắn hạn phần lớn phản ánh sự tự tin lớn hơn trong tăng trưởng và triển vọng lạm phát,đặc biệt là trong sự trỗi dậy dưới tác động của kích thích tài chính của Mỹ. Động thái này chủ yếu là chạy theo hướng của nó, khi các thị trường có giá trong việc tăng lãi suất dự trữ liên bang.

Việc tăng lãi suất ngắn hạn của Mỹ đã góp phần làm phẳng đường cong lợi suất và khuấy động những lo ngại về sự đảo ngược đường cong, một dấu hiệu suy luận không được nhắc đến trước đó. Tuy nhiên, có những lý do tại sao đường cong phẳng của ngày hôm nay có thể ít thông tin hơn trong các chu kỳ trước đó.

Thứ nhất, đường cong phẳng ngày nay là mục đích của các chương trình nới lỏng định lượng toàn cầu. Ngân hàng trung ương mở rộng chỗ ở bằng cách hạ lãi suất dài hạn và giảm phí bảo hiểm kỳ hạn.

Thứ hai, thị trường tài chính ngày càng trở nên tích hợp hơn: Lợi suất thấp trên trái phiếu đáo hạn ở châu Âu và Nhật Bản đang giảm cân đối với các đối tác Mỹ mặc dù chi phí bảo hiểm cao hơn. Thứ ba, phát hành kho bạc ngắn hạn cao hơn đã góp phần vào đường cong phẳng hơn.

Hình 3: đường cong dẹt ra

FED đã thắt chặt định lượng QT làm giảm cung tiền, tăng giá trị đồng bạc xanh, hút tiền từ các nước về nước mĩ, qua đó chống rơi vào suy thoái. Tỷ lệ thoát khỏi bảng cân đối kế toán của Fed được dự báo sẽ tăng lên 50 tỷ đô la mỗi tháng vào cuối năm 2018 . Điều này có nghĩa là ít nhất 600 tỷ đô la trái phiếu sẽ bị loại khỏi bảng cân đối kế toán của Fed vào năm 2019.

Không cần phải nói, những khoản tiền đó kết hợp với thâm hụt hàng năm nghìn tỷ đô la phát sinh từ sự kết hợp cắt giảm thuế Trump và tăng chi tiêu có thể gây ra lãi suất dài hạn được duy trì ở mức cao và do đó “thao túng” đường cong lãi suất và ngăn không cho nó đảo ngược. Đường cong lợi suất trong chu kỳ này có thể không tốt bằng chỉ báo suy thoái như trong năm chu kỳ trước do sóng thần của trái phiếu kho bạc đến từ Fed và thâm hụt ngân sách liên bang gần đây.

Liệu đường cong lợi suất có thể trở nên bị choáng ngợp bởi sóng thần Kho bạc, nơi mà trong thị trường trái phiếu người ta đi tìm manh mối về giai đoạn cuối chu kỳ kinh tế? Đơn giản chỉ cần làm: Nhìn vào sự chênh lệch trái phiếu rác.

Hình 4: đường cong lợi suất cổ phiếu rác

Trong khi sự chênh lêch của cổ phiếu loại CCC không chặt chẽ như trong chu kỳ này, chúng đã thu hẹp đáng kể vào năm 2018. Nếu trái phiếu “rác” thấy sự chênh lệch thu hẹp trong năm 2018, thì đây được coi là một tín hiệu kinh tế tích cực.

“CCC hoặc thứ hạng thấp hơn” là một phần tương đối nhỏ của thị trường trái phiếu rác và tương đối kém thanh khoản, nhưng nó có thể cung cấp những hiểu biết về cách các nhà đầu tư trái phiếu xem triển vọng cho nền kinh tế Mỹ. Bởi vẻ bề ngoài của sự chênh lệch tín dụng thu hẹp trong những thứ rác rưởi nhất đã cho thấy họ dường như không lo lắng.

Nói một cách đơn giản : nếu như cổ phiếu rác mà ko bị chiết khấu đáng kể thì đó là dấu hiệu của thị trường tăng trưởng. Bởi chỉ ngửi thấy mùi suy thoái thì nhà đầu tư đã thi nhau quăng dép ở hạng mục này khiến mức chênh lệch tăng vọt làm đường cong dốc thẳng đứng, chứ đừng nghĩ tới đường cong của hạng mục này dẹt ra nữa

Ngoài việc ko chê bai cổ phiếu rác, cánh ngân hàng còn thể hiện quan điển ở chỉ số CDS và SLOOS.

Với sự biến động quay đầu đi xuống của thị trường vào tháng 2 năm 2018, đã có những tiếng thì thầm, hoặc thậm chí la hét về khả năng thị trường gấu đang lờ mờ hiện ra, và hầu hết mọi người tranh luận là giá cổ phiếu đã quá cao (ví dụ như 32X của Shiller), hoặc thị trường đã chạy quá nhanh (với chỉ số S & P gần 3.000, tăng hơn 4 lần so với mức độ sâu của suy thoái). Nhưng người ta lại không xem xét bối cảnh tín dụng mà diễn biến thị trường đã xảy ra ở trong đó.

Hình 5 : index CDS

Chỉ số hoán đổi tín dụng phá sản CDS (credit default swap) là loại chứng khoán nợ thường có các điều kiện đến hạn thanh toán vẫn còn dài, như mười năm trở lên. Bản thân, người phát hành thường khó biết chắc rằng trong thời gian từ mười năm trở lên, họ vẫn sẽ có vị trí tài chính vững chắc hay không.
Khi chỉ số CDS tăng lên, tất nhiên nó chỉ ra chi phí tài chính cao hơn, nhưng cũng báo hiệu sự không sẵn sàng của các ngân hàng và các nhà đầu tư về tài chính và tái cấp vốn công ty. Điều này, cùng với việc phân tích số lượng các ngân hàng thắt chặt các tiêu chuẩn cho vay (được tìm thấy trong Khảo sát ý kiến ​​cán bộ cấp cao hoặc SLOOS) có thể giúp các nhà đầu tư cổ phần xác định xem thắt chặt tín dụng có đạt được dấu hiệu cho thấy thị trường sắp tới sẽ giảm hay không.

Hình 6 : đường cong khảo sát SLOOS

Ngoài ra, khi SLOOS nổi bật, tỷ lệ phần trăm ngân hàng thắt chặt tiêu chuẩn cho vay đã dao động quanh mức 0% kể từ năm 2015 và hiện đang âm, làm nổi bật thêm việc nhiều ngân hàng đã giảm bớt các tiêu chuẩn tín dụng của họ để phê duyệt đơn, chủ yếu là cho vay C & I. Tín hiệu nới lỏng này tiếp cận tín dụng, và hỗ trợ một nền kinh tế đang phát triển và một luận điểm thị trường chứng khoán tăng trưởng

Vào thời khủng hoảng 2008, chỉ số CDS đạt mức 1300, nay chỉ dưới 100, điều đó báo hiệu mọi thứ vẫn ổn. Chỉ số SLOOS càng ấn tượng hơn khi nó phá đáy và nhỏ hơn 0. Điều này có nghĩa là giới lãnh đạo ngân hàng chỉ hận ko đào tường moi rễ được hàng xóm mà thu hút khách hàng từ bên họ về. Một khi ngân hàng vẫn còn sẵn lòng mở hầu bao và chấp nhận rủi ro với mức phí thấp, khủng hoảng còn ở xa nhắm.

Khi thị trường tăng trưởng đến 1 mức nào đó, tất yếu phải đặt câu hỏi về đà tăng tiếp theo của nó. Trong giai đoạn này của chu kỳ thị trường, tăng trưởng thu nhập, tái đầu tư, và vốn dễ dàng để hỗ trợ tái đầu tư đều quan trọng để tiếp tục mở rộng theo giá thị trường.

Với hiệu ứng đó, có ba điều quan trọng cần xem xét khi tập trung vào khi chúng ta hoàn toàn bước vào giai đoạn thứ hai của thị trường tăng trưởng này (suy nghĩ năm 1998 và 1999, hoặc 2006 và 2007):

  • Các công ty có cần thay thế tài sản cũ không?

  • Các công ty có cần đầu tư vào tài sản mới không?

  • Có vốn để thực hiện các khoản đầu tư này không?

Dựa vào chỉ số PP & E tổng hợp theo thời gian có thể là một thử nghiệm tốt để hiểu khi nào các công ty đã “vắt sữa” bảng cân đối của họ hoặc tăng cường đầu tư khi đối mặt với các cơ hội tăng trưởng dự kiến. Cụ thể, khi tỷ lệ PP & E tổng cộng tăng lên đáng kể (như đã làm trong năm 2005-2007), điều đó có nghĩa là các nhóm quản lý đang tích cực đầu tư vào tài sản của họ để thúc đẩy tăng trưởng.

Tuy nhiên, tỷ lệ PP & E trên tổng doanh thu liên tục giảm kể từ quý 3 năm 2014, và hiện đang ở mức thấp nhất trong vòng 15 năm. Biên độ ban đầu có liên quan đến việc đầu tư chậm lại trong lĩnh vực năng lượng sau khi giá dầu giảm, và đã trở thành một xu hướng lớn trên thị trường. Khi tổng doanh thu từ hoạt động kinh doanh tổng hợp giảm, các nhóm quản lý đang trì hoãn việc duy trì vốn và quản lý dòng tiền. Đây là dấu hiệu cho thấy đội ngũ quản lý chưa cam kết đầu tư vào tăng trưởng.

Hình 7 : tỉ lệ tái đầu tư

Tỷ lệ sử dụng công suất tổng cộng (TCU) của Hoa Kỳ được sử dụng để xác định mức độ hiện tại của hệ thống trong khả năng tăng khối lượng mà không chi tiêu trên vốn đầu tư. Fed sử dụng số liệu này để xem liệu có chỗ để phát triển nền kinh tế mà không gây ra áp lực lạm phát. Tỷ lệ TCU vượt quá 85% được cho là lạm phát.

Hình 8 : tỉ lệ sử dụng công suất

Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng công suất gần đây đã bắt đầu phục hồi. Đặc biệt, vào cuối năm 2017, tổng công suất sử dụng tăng từ mức thấp nhất của dải gần đây, ổn định trên 75%. Nó gần đây đã có xu hướng hướng tới 80% một lần nữa, có khả năng báo hiệu lý do mới cho chi tiêu capex trong trung hạn.Các công ty sẽ cần phải chi tiêu cho tăng trưởng capex để tiếp tục đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

2 Likes

Chào bác chủ, chào cả nhà!
Cả nhà vào nhà bác chủ tranh luận có phần gay gắt do bác chủ cho rằng cu Đần đủ uy tín gây áp lực lên giới khai thác dầu trung đông, giúp giá đầu tg giảm 5%! Cu Đần giờ chẳng còn trọng lượng gì đâu bác ơi, ngay trong nước Mỹ chứ chưa nói đến trung đông hay tg! Có thể nói dầu đá phiến và khai thác dầu của Mỹ chết có phần ko nhỏ của cu Đần!
Thực tế giá dầu tg đêm qua giảm là hệ quả của FED và nhiều nước tăng LS, khiến cầu giảm do kinh tế có thể rơi vào suy thoái…

1 Likes

Chiến tranh Nga U sắp ngã ngũ rồi dầu khí khẳng định đạt đỉnh

Lạm phát Mỹ tăng cao nhất 40 năm thì k lý do gì Mỹ nó để giá dầu cao như vậy dc

Cu này là chim cái sao tao thấy mày đi chim dòng p dữ vậy

Hơ, em đã bảo topic này đang tạm dừng mục tranh luận trong 27 ngày mà ( để tương xứng với 27 mã sàn của các dòng P, dòng thuỷ sản, dòng phân bón ạ). Có gì mời các bác sang topic kia để tranh luận ạ. Hiện tại em chủ yếu post các câu chuyện cuối tuần thôi cho tới lúc nào hết thời gian ngừng tranh luận.

Tôi phân tích k đúng ah?

Tâu tắng cũng khá quá nhỉ,đoán trúng phóc,mỗi tội lệch mất 7 ngày.

Thấy b đặt vấn đề này nhiều nên m nói thế này nhé.
-đầu tiên đây chỉ là dự đoán nên từ lúc dự đoán đến lúc đàm phán còn rất dài.trước hết là 2 bên phải dạt dc mục tiêu trên chiến trường để có lợi thế đàm phán thì mới bắt đầu,quá trình đàm phán có khi kéo dài 6t-1 năm.quá trình ngừng bắn,rút quân còn lâu hơn nhiều.kết thúc chiến tranh rồi thì sao?có thể lương thực,phân bón,than sẽ giảm giá về đúng với giá trị của cung-cầu nhưng dầu thì chưa.chính phủ 1 nước đâu thể sáng nhổ chiều liếm dc.vừa mới hô cai dầu nga,cái lệnh cấm dầu còn chưa khô mực thì bỏ kiểu gì?cái đấy cũng muốn bỏ mất nhiều thời gian lắm.
vì thế cả thế giới đều cho rằng giá dầu vẫn còn neo cao trong năm tới.thời gian để cho các nhà cung cấp khôi phục lại năng lực khai thác (tb là 2 năm) đã bị cắt giảm thời covit hoặc bị tàn phá bởi cấm vận (iran,venezulea)
-thứ 2 là việc chỉnh sửa luật dầu khí 2022 chỉ tập trung vào khu vực thượng nguồn chứng tỏ chính phủ muốn đẩy nhanh việc hợp tác khai thác,thăm dò,thu hút đầu tư nước ngoài.tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự án.vậy nên bức tranh của nghành dầu khí việt nam trong vài năm tới sẽ rất nhộn nhịp
Việc giá dầu thế giới giảm từ mức cực kì cao xuống mức rất cao,cao hay khá cao ko ảnh hưởng nhiều đến cổ p tại việt nam,có chăng chỉ là chỉnh tâm lí rồi lại tiếp tục chứ ko có chuyện sập trong thời điểm này vì không gian phát triển của các doanh nghiệp dòng P thời gian tới vẫn còn rất lớn.mức giá vốn khai thác dầu khí ở đông nam á là 50$,vậy nên chỉ cần giá dầu vẫn ở trên 6-70$ thì các doanh nghiệp trong nghành vẫn sống khoẻ bác nhé.

1 Likes

Thị trường nó nhạy lắm bác chỉ cần Nga -U bớt căng thẳng là giá dầu down rồi. Như vậy tốt cho cả thế giới. Áp lực lạm phát giảm thì Fed cũng nhẹ tay hơn trong việc nâng ls như vậy tốt cho Ck

Nhạy thì nó cũng chỉ là thời điểm,như lúc này giá dầu bị phản ánh bởi tin tức kinh tế,chính trị đó.nhưng cuối cùng nó vẫn phải vận động theo quy luật cung cầu thôi.trung quốc chưa mở cửa mà giá còn thế này thì lúc nó mở cửa bác bảo giá xuống dưới 80$ kiểu gì mà lo sập