Tiếp tục kể lại những câu chuyện đã bị con trâu trắng tố cáo là rác rưởi khiến DHA xoá đi
Câu chuyện cuối tuần 21
Diesel sinh học : đang chờ cơ hội
http://www.rlqh.cn/dt/173.162641.html
Xét từ sản lượng dầu diesel sinh học, các nước (khu vực) sản xuất chính có sản lượng lớn nhất ở EU, tiếp theo là Hoa Kỳ, Brazil có sản lượng lớn thứ ba, Argentina và Indonesia có sản lượng tương tự, và Malaysia có sản lượng thấp nhất.
Từ quan điểm về cơ cấu nhu cầu, EU có mức tiêu thụ nhiên liệu diesel lớn nhất, tiếp theo là Hoa Kỳ, Argentina hiện tại giữ lượng nguyên liệu xuất khẩu lớn nhất. Và Hoa Kỳ, Brazil và Liên minh châu Âu lấy tiêu thụ nội địa làm trụ cột chính.
Đánh giá sản xuất dầu diesel sinh học từ khía cạnh nguyên liệu thô, dầu cọ của Mã Lai và Indonesia được xem như nguyên liệu . Nguyên liệu cho nhiên liệu sinh học ở Brazil và Argentina là dầu đậu nành, nguyên liệu cho nhiên liệu sinh học trong daaiu hạt cải chiếm phần lớn nhất EU (nhưng có xu hướng giảm), dầu diesel sinh học nguyên liệu Mỹ Chủ yếu là dầu đậu nành.
Với sự tăng giá dầu thô, lợi thế về giá cả của dầu diesel sinh học đã dần dần lớn hơn, và nhu cầu dầu diesel sinh học cho nhiên liệu có thể tăng lên. Trong giai đoạn sau, cần chú ý đến những thay đổi chính sách có liên quan ở nước sản xuất chính.
Các yếu tố dẫn dắt chính cho sự phát triển của ngành công nghiệp biodiesel:
-
Nhu cầu về an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường;
-
Sự hỗ trợ của các chính sách của chính phủ;
3, so với nhiên liệu truyền thống, nó có lợi thế về giá cả.
I. Cơ cấu cung cầu dầu diesel sinh học ở Malaysia
1.1 Chính sách biodiesel Malaysia
21 Tháng Ba năm 2006 chính phủ Malaysia đã ban hành “chính sách nhiên liệu sinh học quốc gia,” chính sách nhằm mục đích thông qua việc sử dụng năng lượng tái tạo để cải thiện môi trường, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, qua đó ổn định và nâng cao giá dầu cọ. Năm 2007, Quốc hội Malaysia đã thông qua “Luật Công nghiệp nhiên liệu sinh học”, đòi hỏi ngành công nghiệp trồng cây và các phòng ban hàng hóa để thực hiện các nhiệm vụ trộn dầu diesel sinh học.
Với sự gia tăng của dự trữ dầu cọ trong nước và sự suy giảm về giá, chính phủ Malaysia đã giới thiệu tiêu chuẩn B7 vào năm 2015. Để thúc đẩy tiêu dùng trong nước của dầu diesel sinh học, chính phủ Malaysia xây dựng “Kế hoạch Malaysia năm năm thứ mười” (2016-2020), nhằm thúc đẩy tiêu chuẩn trộn diesel sinh học ở Malaysia năm 2020 đạt B15. Tuy nhiên, do thiếu các ưu đãi, tiêu chuẩn B10 ban đầu được hoạch định bởi chính phủ Malaysia vào năm 2017 vẫn chưa được thực hiện. Ngoài ra, các nhà sản xuất ô tô tin rằng nhiên liệu pha trộn vượt quá tiêu chuẩn B7 có thể gây ra vấn đề với động cơ ô tô.
1.2 Cơ cấu cung cầu dầu diesel sinh học Malaysia
Từ năm 2009, sản xuất diesel sinh học của Malaysia đã bị biến động do các chính sách, và phía cầu đã chuyển từ xuất khẩu sang tiêu thụ nội địa. 2017 sản xuất dầu diesel sinh học Malaysia là 480 triệu lít, khối lượng xuất khẩu 150 triệu lít, tiêu thụ nội địa đạt 340 triệu lít, xuất khẩu chiếm 31,25% tổng sản lượng. Bên cạnh đó, USDA ước tính sản xuất dầu diesel sinh học năm 2018 của Malaysia là 470 triệu lít, xuất khẩu 110 triệu lít, tiêu thụ trong nước là 370 triệu lít, như vậy xuất khẩu chiếm 23,40% sản lượng.
Hình 1 : sản lượng dầu cọ của malaixia, lượng xuất khẩu và thị phần trong thế giới
Các dữ liệu trên cho thấy rằng sản xuất biodiesel ở Malaysia đã tương đối ổn định trong hai năm qua, và tiêu dùng trong nước đã chiếm ưu thế. Từ điểm xuất khẩu, dầu diesel sinh học của Malaysia chủ yếu xuất khẩu sang Liên minh châu Âu. dữ liệu của USDA cho thấy trong năm 2016, tổng kim ngạch xuất khẩu dầu diesel sinh học của Malaysia 8.36 vạn tấn, trong đó xuất khẩu sang EU là 6.97 vạn tấn (chiếm 83,47%). Kim ngạch xuất khẩu đến Thụy Sĩ là 1 vạn tấn (chiếm 11,96%), xuất khẩu sang Trung Quốc 0,25 vạn tấn (chiếm 3%). Do đó, việc tiêu thụ biodiesel ở EU có tác động lớn hơn đến xuất khẩu dầu của Malaysia.
Tiêu thụ dầu diesel sinh học của Malaysia chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong sản xuất , nhưng có tiềm năng tăng trưởng lớn. Theo thống kê, năm 2017 sản xuất dầu diesel sinh học Malaysia là 480 triệu lít, lượng quả cọ 42,3 triệu tấn, trong khi sản xuất năm 2017 là 20,5 triệu tấn dầu, tiêu thụ nguyên liệu chỉ chiếm 2 % hoặc hơn trong tổng sản lượng quả cọ malaixia. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tiềm năng sản xuất của Malay, mức tiêu thụ dầu cọ tối đa của Malay có thể đạt 2,2 triệu tấn (khoảng 10% sản lượng quả cọ malaixia ).
Trong ngắn hạn, việc tiêu thụ dầu diesel sinh học ở Malaysia sẽ không tăng đáng kể. Dự kiến tỷ lệ pha trộn dầu diesel sinh học ở Malaysia vẫn sẽ là 7% vào năm 2018 và tiêu thụ biodiesel hàng năm sẽ vào khoảng 370 triệu lít. Đây là điều rút ra của chính phủ Malaysia từ hội nghị về “Nhiên liệu sinh học của Malaysia” được tổ chức ngày 07-08 tháng 8 năm 2017. Hội thảo nói rằng chỉ khi giá thị trường dầu thô đáp ứng > 80 USD / thùng, giá quả cọ là thấp hơn $ 520/ tấn, cùng với các công ty sử dụng dầu diesel sinh học B10 để cung cấp các điều kiện bảo đảm cho các phương tiện sản xuất ô tô chạy bằng điêzen , thì chính phủ Mã Lai sẽ triển khai và mở rộng tiêu chuẩn B10. Do đó, tiêu thụ biodiesel Malay khó có thể tăng đáng kể trong ngắn hạn.
II Cơ cấu cung cầu diesel sinh học của Indonesia
2.1 Chính sách biodiesel của Indonesia
Năm 2015, Tổng thống Indonesia đã ký nghị định số 61: Một quỹ được thành lập để hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp biodiesel trong nước. Quỹ này sử dụng thuế từ xuất khẩu dầu cọ như một nguồn tài trợ để hỗ trợ tiêu thụ biodiesel ở Indonesia bằng cách bù đắp sự khác biệt giữa dầu diesel sinh học và diesel thông thường. Quỹ này do BPDPKS quản lý và Bộ Năng lượng và Tài nguyên Khoáng sản của Indonesia phân phối trợ cấp cho các nhà sản xuất diesel sinh học sau mỗi sáu tháng. Dự án bắt đầu vào nửa cuối năm 2015 và đã hoạt động suôn sẻ kể từ khi thành lập.
2.2 Cơ cấu cung cầu diesel sinh học của Indonesia
Dầu diesel sinh học được sản xuất ở Indonesia sử dụng dầu cọ làm nguyên liệu thô. Báo cáo Năng lượng và Bộ tài nguyên khoáng sản của Indonesia cho thấy, vào năm 2016 sản xuất dầu diesel sinh học của của Indonesia là 36.56 triệu lít; bằng cách giảm số lượng mua, chính phủ Indonesia dự kiến diesel sinh học sản xuất vào năm 2017 là 29 triệu lít. Dựa trên năng suất bình quân, nhu cầu xuất khẩu thấp nhất và với kỳ vọng tiêu thụ nội địa ổn định, sản lượng biodiesel của Indonesia vào năm 2018 dự kiến đạt 33 triệu lít . Xét về năng lực sản xuất, tỷ lệ sử dụng công suất biodiesel ở Indonesia năm 2017 là 25,11%, và sản lượng diesel sinh học tối đa có thể đạt 11.547 triệu lít. Ngoài ra, lượng quả cọ CPO sử dụng cho sản xuất diesel trong năm 2017 là 2,668 triệu tấn, chiếm 6,9% tổng sản lượng quả cọ của Indonesia. Nếu biodiesel được sản xuất hết công suất ở Indonesia, việc sử dụng CPO có thể đạt 10,6 triệu tấn (xấp xỉ 27,5% tổng sản lượng dầu cọ).
Hình 2 : sản lượng cọ, tỉ lệ làm dầu cọ của indonesia
Từ năm 2015, dầu diesel sinh học của Indonesia đã bị chi phối bởi tiêu thụ nội địa và xuất khẩu tương đối thấp. Kể từ khi thực hiện chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp biodiesel trong năm 2015, tiêu thụ biodiesel trong nước ở Indonesia đã tăng lên đáng kể và duy trì ở mức cao trong hai năm qua. Chính phủ Indonesia dự kiến tiêu thụ biodiesel trong nước là 31 triệu lít vào năm 2018, với xuất khẩu 2 triệu lít và xuất khẩu chiếm khoảng 6% sản lượng.
Thứ ba, cung cấp và cơ cấu nhu cầu diesel sinh học của Brazil
3.1 Chính sách dầu diesel sinh học của Brazil
Để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học trong nước, giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu dầu, giảm lượng khí thải ô nhiễm và chi phí y tế liên quan đến, chính phủ Brazil đã tạo ra “Chương trình sản xuất diesel sinh học Quốc gia” vào năm 2004. Năm 2005, Brazil đã thiết lập vị trí của biodiesel làm nhiên liệu dưới dạng luật liên bang. Tỷ lệ pha trộn của biodiesel ở Brazil được đặt ở mức 2% trong năm 2008. Với sự tăng trưởng liên tục của sản xuất diesel sinh học, tỷ lệ pha trộn của dầu diesel sinh học đã dần dần tăng lên.
3.2 Cấu trúc cung cầu diesel sinh học của Brazil
Với sự hỗ trợ của các chính sách của chính phủ, ngành công nghiệp biodiesel ở Brazil đã phát triển ổn định trong hai năm qua. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 sản lượng diesel sinh học của Brazil là 43 triệu lít, 2018 dự kiến đạt sản lượng 48.50 triệu lít. Từ năm 2016 tất cả sản lượng của Brazil được giữ lại cho tiêu dùng trong nước. Năm 2017 sản lượng của Brazil là 42.62 triệu lít. Người ta ước tính rằng tiêu thụ sẽ đạt 48.38 triệu lít vào năm 2018. Từ tình hình sử dụng năng lực, năm 2017 năng lực sản xuất dầu diesel sinh học của Brazil 77.69 triệu lít, công suất sử dụng là 55,3%; năm 2018 là 85.95 triệu lít , công suất sử dụng là 56,4%.
Đối với việc sử dụng nguyên liệu diesel sinh học, dầu diesel sinh học của Brazil sử dụng dầu đậu nành làm nguyên liệu chính. Còn mỡ động vật, dầu hạt bông, vv, là thiểu số. Ví dụ, trong năm 2016, sản lượng dầu diesel sinh học của Brazil từ dầu đậu nành chiếm 76% tổng sản lượng, và sản xuất nguyên liệu thô từ các nguyên liệu thô khác chiếm khoảng 34%. Năm 2017, Brazil đã sử dụng 27.43 triệu tấn dầu đậu tương (33% tổng sản lượng dầu đậu tương) để sản xuất biodiesel, dự kiến tiêu thụ đậu tương năm 2018 sẽ đạt 30.94 triệu tấn (khoảng 37% tổng sản lượng đậu tương).
Thứ tư, cung cấp diesel sinh học và cấu trúc nhu cầu sinh học của Argentina
4.1 Chính sách biodiesel của Argentina
Giữa năm 2014, Quốc hội Argentina thông qua “Đạo luật 23.996”, dự luật quy định về việc dừng thu tiền thuế tiêu thụ 19% rồi 22% với trạm xăng sử dụng dầu diesel sinh học địa phương. Quy định này tiếp tục cho đến khi EU dỡ bỏ thuế chống trợ cấp với Biodiesel của Argentina và các chính sách này đã được gia hạn trong năm 2016 và 2017.
Tháng 4 năm 2016, Nghị quyết số 37 của Bộ Năng lượng Argentina ban hành thêm quy định tỷ lệ bio-ethanol trong xăng lên 12%, thêm tỷ lệ dầu diesel sinh học trong nhiên liệu diesel tăng lên đến 10%. Tuy nhiên, hai mục tiêu này chưa đạt được, trong năm 2016, tỷ lệ hiệu quả của ethanol sinh học là 10,4%, và tỷ lệ hiệu quả của biodiesel là 8,6%. Trong tháng 6 và tháng 7 năm 2017, GOA đã điều chỉnh thuế xuất khẩu đối với dầu diesel sinh học xuống 0% (0,13% trong tháng 5), trong khi thuế xuất khẩu đối với dầu đậu tương là 27% trong cùng kỳ.
4.2 Cấu trúc cung cầu diesel sinh học ở Argentina
Với sự hỗ trợ của chính sách nhà nước, từ năm 2009, sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học của Argentina, sự tăng trưởng nhanh chóng của sản xuất dầu diesel sinh học, nhưng do tiêu thụ trong nước hạn chế, xuất khẩu dầu diesel sinh học Argentina hơn 50% sản lượng. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 sản xuất dầu diesel sinh học của Argentina là 29.40 triệu lít, tăng 116% so với năm 2009 mới có 13.60 triệu lít. Năm 2018 sản lượng diesel sinh học Argentina là 30.50 triệu lít.
Từ tình hình sử dụng năng lực, công suất sử dụng nhiên liệu sinh học của Argentina là tương đối cao. Năm 2017 với tỷ lệ sử dụng công suất la 53%, năm 2018 năng lực sản xuất dầu diesel sinh học của Argentina là 55.50 triệu lít, công suất sử dụng là 55%. Bên cạnh đó, nguyên liệu chính cho dầu diesel sinh học ở Argentina là đậu nành. Sử dụng đậu tương vào năm 2017 là 2,64 triệu tấn nguyên liệu ( tức 33% tổng sản lượng đậu nành), việc sử dụng đậu nành được dự kiến trong năm 2018 là 2.740 tấn nguyên liệu (chiếm 45% sản lượng đậu nành ).
Xét về nhu cầu dầu diesel sinh học ở Argentina, do ảnh hưởng của khả năng tiêu thụ trong nước, tiêu thụ biodiesel trong nước của Argentina chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong sản lượng, trong khi xuất khẩu diesel sinh học chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo số liệu của USDA cho thấy trong năm 2017 mức tiêu thụ nhiên liệu sinh học của Argentina trong nước là 12.40 triệu lít, xuất khẩu 17 triệu lít , tỷ trọng xuất khẩu chiếm 57,82% sản lượng . Khối lượng xuất khẩu diesel sinh học của Argentina năm 2018 dự kiến vẫn sẽ là 17 Triệu lít.
V. Cung và cầu cấu trúc của biodiesel tại Hoa Kỳ
5.1 Chính sách biodiesel của Mỹ
Vào năm 2013, chính sách của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ đã nói rằng dầu diesel sinh học có thể được sử dụng để giúp đáp ứng hạn ngạch nhiên liệu sinh học tiên tiến, từ 2,0 đến 25,1 tỷ gallon. Tỷ lệ pha trộn dầu diesel sinh học Hoa Kỳ tại diesel từ 5% đến 20%, và mức tiêu thụ trung bình của dầu diesel sinh học vào năm 2016 chiếm khoảng 4% tổng tiêu thụ diesel. Vào tháng 3 năm 2017, Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc điều tra chống bán phá giá và đối kháng về dầu diesel sinh học được nhập khẩu từ Argentina và Indonesia. Vào tháng 11 năm 2017, Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng mức thuế chống bán phá giá từ 34% đến 72% đối với nhập khẩu dầu diesel sinh học từ Argentina và Indonesia.
5.2 Cấu trúc cung cầu dầu diesel sinh học ở Mỹ
Với sự hỗ trợ của các chính sách của chính phủ, sản xuất biodiesel ở Hoa Kỳ đã tăng lên nhanh chóng kể từ năm 2011. Đến năm 2017, sản lượng biodiesel ở Hoa Kỳ là 1.594 tỷ gallon, tăng 65% so với năm 2011. Dầu diesel sinh học từ Hoa Kỳ cơ cấu nguồn cung trong nước, dầu diesel sinh học sản xuất trong nước là chính (hai năm gần nhất sản xuất trong nước chiếm hơn 70%). Nhưng kể từ năm 2013 mĩ gia tăng nhanh chóng nhập khẩu nguyên liệu. Ví dụ, vào năm 2016 Hoa Kỳ nhập khẩu nguyên liệu 6,88 Tỷ gallon (28% tổng nguồn cung trong nước), và các nguồn nhập khẩu chính là Argentina và Indonesia.
Tuy nhiên, tháng ba năm 2017 Bộ Thương mại Mỹ công bố nhập khẩu chống bán phá giá và chống trợ cấp điều tra dầu diesel sinh học từ Argentina; tháng 11 năm 2017 Mỹ áp đặt thuế chống bán phá giá hàng nhập khẩu nguyên liệu từ Argentina và Indonesia. 2017 tổng lượng dầu diesel sinh học Mỹ nhập khẩu là 937 triệu thùng, giảm 44% so với năm 2016; EIA dự kiến tổng nhập khẩu nguyên liệu của Mỹ vào năm 2018 và 2019 là 11.90 thùng. Ngoài ra, từ quan điểm sử dụng năng suất sản xuất biodiesel của Mỹ, tỷ lệ sử dụng năng suất trong năm 2017 là dưới 6%, cho thấy tiềm năng sản xuất nguyên liệu của Mỹ là rất lớn.
Nguyên liệu chính cho dầu diesel sinh học ở Hoa Kỳ là dầu đậu nành, dầu bắp và dầu hạt cải dầu. Tổng sản lượng diesel sinh học ở Hoa Kỳ năm 2017 là 1.594 tỷ gallon, trong đó sử dụng dầu đậu tương là 2.825 triệu tấn, việc sử dụng dầu ngô là 716.200 tấn, và việc sử dụng dầu hạt cải là 658.600 tấn. Ngoài ra, một số chất béo động vật cũng được sử dụng.
Xét về nhu cầu đối với dầu diesel sinh học ở Mỹ, dầu diesel sinh học ở Hoa Kỳ bị chi phối bởi tiêu thụ nội địa và xuất khẩu chiếm tỷ lệ tương đối thấp. Ví dụ, vào năm 2016 diesel sinh học Mỹ tiêu thụ trong nước 95,25 phần trăm của tổng cầu, xuất khẩu dầu diesel sinh học chỉ chiếm 4,75 phần trăm tổng nhu cầu.
VI: Cấu trúc cung cầu của dầu diesel sinh học EU
6.1 Chính sách biodiesel của EU
Vào ngày 6 tháng 4 năm 2009, Hội đồng châu Âu đã thông qua gói năng lượng và biến đổi khí hậu của EU. Vào ngày 25 tháng 6 năm 2009, “Chỉ thị năng lượng tái tạo” có hiệu lực. Mục tiêu theo quy định của Liên minh châu Âu là vào năm 2020 số lượng sử dụng năng lượng sinh học trong lĩnh vực giao thông đạt 10%, mục tiêu dài hạn để sử dụng năng lượng sạch cho giao thông, nhà máy điện, trạm sưởi ấm và làm mát trạm là 20 % tổng nguồn cung cấp nhiên liệu.
Vào tháng 5 năm 2013, Ủy ban châu Âu đã ban hành Quy định số 490, áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với dầu diesel sinh học nhập khẩu có xuất xứ từ Argentina và Indonesia. Quy định này có hiệu lực vào ngày 29 tháng 5 năm 2013. Nó áp đặt mức thuế suất 6,8-10,6% đối với dầu diesel sinh học của Argentina và mức thuế 0-9,6% đối với dầu diesel sinh học của Indonesia.
6.2 Cấu trúc cung cầu diesel sinh học của EU
Nhờ sự gia tăng trong xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, sản lượng biodiesel và HVO của EU tiếp tục tăng trong năm 2017. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 việc sản xuất dầu diesel sinh học EU là 15.295 triệu lít (tăng 3,88%), HVO 2570 sản xuất triệu lít (tăng 5,24%); 2018 sản xuất dầu diesel sinh học là 16.12 triệu lít, sản lượng HVO 34.70 triệu lít. Từ tình hình sử dụng năng lực, vào năm 2017 các công suất sử dụng nhiên liệu sinh học EU đạt 60% . Năm 2018 tỷ lệ sử dụng công suất xấp xỉ năm trước. Năm 2017 HVO công suất sử dụng là 74,5% (công suất 34.50 triệu lít), 2018 với Tỷ lệ công suất sử dụng dự kiến là 65,5% (53 triệu lít).
Đối với việc sử dụng nguyên liệu diesel sinh học, nguyên liệu thô của biodiesel và HVO của EU chủ yếu là dầu hạt cải, dầu cọ và dầu tái chế của nhà hàng. Trong năm 2017, dầu hạt cải dầu chiếm 45,43%, dầu cọ chiếm 19,25%, và dầu tái chế của nhà hàng chiếm 18,51%. Hơn nữa, khi việc sử dụng dầu tái chế và các loại dầu và chất béo khác tăng lên, tỷ lệ sử dụng dầu hạt cải sẽ tiếp tục giảm.
Về phương diện nhu cầu dầu tiêu thụ diesel sinh học trong EU là chính, xuất khẩu có tỷ lệ thấp hơn. Nhưng kim ngạch xuất khẩu nguyên liệu trong những năm gần đây tiếp tục tăng. Theo số liệu của USDA cho thấy vào năm 2017 xuất khẩu dầu diesel sinh học EU 450 triệu lít (tăng 10%), tiêu thụ trong nước 15.39 triệu lít (tăng 3,35%), tỷ lệ xuất khẩu chiếm 2,9%.
- So sánh giá diesel sinh học và giá diesel
Với sự tăng giá dầu thô, lợi thế về giá dầu diesel sinh học đã dần dần nổi lên, và nhu cầu dầu diesel sinh học cho dầu có thể tăng lên. Theo số liệu của USDA, tính đến tháng 4 2018 giá diesel sinh học của Mĩ là 3,02 $ / gallon, trong khi giá nhiên liệu truyền thống của dầu diesel hóa thạch là 3.10 $ / gallon. Như vậy giá dầu diesel sinh học thấp hơn so với giá dầu diesel truyền thống là 0,08 $ / gallon. Bên cạnh đó, những thay đổi chính sách với giá dầu thô Brent tăng lên mức 80 $ / thùng, một số nước (như malaixia) hoặc tăng tỷ lệ pha trộn của gỗ nguyên liệu dùng trong nước, hoặc áp dụng chính sách tập trung vào các nước sản xuất nguyên liệu chính.
Túm váy lại :
Với Indo, giá dầu thô 70 trump/ thùng đã khiến nhà nước ko cần tài trợ cho biosiesel sinh học nữa, do đó mức tăng tỉ lệ pha trộn vào xăng chỉ là vấn đề kĩ thuật, từ cách thức pha chế tới cách đốt của động cơ.
Với Malaixia, giá dầu thô 80 trump/ thùng mới đủ hấp dẫn nhà nước dùng biodiesel sinh học, vì khi đó mới cắt khoản trợ giá
Do đó, khi oil > 80 trump/ thùng thì giá dầu cọ mới tăng mạnh