Đêm 10/6 dầu giảm 5%

Năn nỉ các bác đừng vào topic này tranh luận nữa mà, mời các bác sang topic bên kia trao đổi ý kiến. Giờ bên này chỉ để kể các câu chuyện cuối tuần thôi

Về Nga - U Cà:

  • Mục đích của Nga không phải đánh chiếm toàn bộ U Cà mà họ chỉ muốn sáp nhập vùng ly khai, cho nên mới có câu chiến dịch quân sự
  • Bản chất là Nga đang muốn câu kéo chiến dịch thôi, chứ các bác nghĩ tiềm lực của Nga mà sợ mấy ông U Cà chờ viện trợ vũ khí của Phương Tây hay Mỹ ak. Nga mà muốn nhanh gọn thì 1 tháng đã chiếm xong U Cà từ lâu rồi. Nhưng làm vậy thì chẳng có gì lớn tác động vào thị trường cả. Bản chất họ muốn làm nóng lên tình hình để thế giới đoán khi đó cái ảnh hưởng lớn nhất chính là thị trường hàng hóa. Họ muốn kéo dài để ăn lợi ích về giá dầu và ép Mỹ phải đưa ra các quyết định khó khăn thôi. Hoặc ông chọn kinh tế suy thoái hoặc chọn lạm phát dân cao.
  • Theo tuyên bố mới đây từ Putin thì có vẻ Nga sắp đạt mục đích về chiến dịch quân sự (Các vùng ly khai cũng đã chiếm gần hết rồi). Khi đó đàm phán hòa bình chỉ là U Cà chấp nhận vùng ly khai thuộc Nga, Nga chấp nhận cho U Cà vào EU. Hết Phim :slight_smile:
    Còn về dòng P hay Thủy Sản ở VN:
    Ở đây mình chỉ nêu quan điểm cá nhân không đả kích hay ôm BDS mà nói (Vì mình cũng chả ôm 2 thằng này)
    Lợi nhuận P tăng cao do đang còn hàng tồn Kho giá rẻ, mọi người sẽ thấy lợi nhuận vượt bậc và cò lái các thứ sẽ đưa giá lên cao để kiếm lợi. Lợi nhuận sẽ giảm dần về sau do mất nguồn tồn Kho này (y chang Thép trước đây thôi). Giả dụ giá dầu neo ở mức 120USD đến cuối năm đi, hàng nhập vào giá cao thì lấy gì đòi lợi nhuận cao như khi có hàng tồn giá rẻ (báo cáo quy 3 & 4 sẽ thấy rõ). Đó là chưa kể nếu giá giảm đột ngột là lỗ đấy.
    Còn giá cổ phiếu tăng cao thì ở VN rất ảo ma canada, media bơm thổi, lái thì ép tăng cho nhỏ lẻ gom. Khi đạt lợi nhuận thì bắt đầu xả. Các con nhạn đu đỉnh thì xa bờ thôi. Nguyên tắc cơ bản tăng nhanh thì xuống nhanh. Lí do abc chỉ là cái cớ để điều tiết.
    Về Thủy sản: Đơn hàng cao do vừa mới mở cửa lại XK gần đây, và cầu cao do mất nhiều nguồn cung từ đợt covid. Khi Mỹ thắt chặt chi tiêu thì lúc đó mới thấy. Chưa kể rất dễ bị dính mấy án bán phá giá.
1 Likes

Em xin các bác. Em đã mời các bác có tranh luận gì thì sang topic bên kia mà, giờ chỗ này chỉ để ní nuận suông thui

chúng ta lại tiếp tục với những topic từng bị con trâu trắng coi là rác rưởi và xúi thằng DHA xoá đi

Câu chuyện cuối tuần 24 ( cũ)

Đường cong lợi suất dẹt ( Phần 2b : Chỉ xích thiên nhai)

Chúng em xin tiếp tục với các tín hiệu suy thoái.

Một tín hiện cảnh báo suy thoái nữa là ETI ( Economic Trend Index ) và EMI ( Economic Momentum Index). Xu hướng kinh tế và chỉ số Momentum vẫn nằm trên vùng nguy hiểm tương ứng (50% đối với ETI và 0% đối với EMI). Khi / nếu các chỉ số rơi xuống dưới các điểm tới hạn đó, sự suy giảm sẽ đánh dấu những dấu hiệu cảnh báo rõ ràng rằng rủi ro suy thoái đang tăng lên và một sự suy thoái mới sắp xảy ra.

Hình 9 : Chỉ số ETI và EMI

Việc dịch các giá trị lịch sử của ETI vào xác suất suy thoái kinh tế thông qua mô hình probit cũng chỉ ra nguy cơ chu kỳ kinh doanh thấp đối với Hoa Kỳ trong tháng 5 . Phân tích dữ liệu trong khuôn khổ này chỉ ra rằng tỷ lệ cược vẫn có hiệu quả bằng không mà NBER sẽ tuyên bố tháng Tư là khởi đầu của một cuộc suy thoái mới.

Hình 10 : rủi ro suy thoái

Bác nào cẩn thận có thể theo đọc link bên dưới, chúng em chỉ tiết kiệm chút thời gian cho mọi người thôi. Link đây ạ, ở bên phải thanh link có nút dịch, gu gồ dịch topic này cũng khá tốt.

http://www.capitalspectator.com/premium-research/

Sau khi đánh giá qua rủi ro suy thoái, chúng ta quay sang trả lời câu hỏi P/E đang cao ngất ngưởng thì thị trường còn trông vào đâu để tăng trưởng.

Trong 100 năm qua, chỉ số P / E trung bình của S & P 500 là 16.2x, và S & P 500 hiện đang giao dịch ở mức 23.2x, cho thấy thị trường đắt đỏ.

Tuy nhiên, việc so sánh định giá với P / E trung bình 100 năm không cho chúng ta biết toàn bộ câu chuyện. Bối cảnh là điều cần thiết. Có rất nhiều trình điều khiển quan trọng của bối cảnh theo thời gian, hai trong số đó là thuế suất và lạm phát. Phân tích lịch sử và lý thuyết kinh tế đều cho thấy rằng thuế nhà đầu tư thấp hơn dẫn đến định giá công bằng của P/E cao hơn, và lạm phát cao dẫn đến định giá P/E thấp hơn (và ngược lại). Như vậy, khi suy nghĩ về bối cảnh giá thị trường hiện tại, chúng ta nên xem xét môi trường mà chúng ta đang đầu tư.

Hình 11 : thuế và lạm phát ảnh hưởng tới P/E

Mĩ hiện đang ở trong một môi trường lạm phát thấp (nhưng xu thế tăng), cùng với tỷ lệ cổ tức thấp và thuế suất tăng vốn, so với tỷ lệ lịch sử có khả năng vẫn tồn tại. Với việc ý đồ hiện tại của nhánh lập pháp của Mỹ và dự trữ dài hạn của Cục Dự trữ Liên bang về mục tiêu lạm phát 2% , các tay chơi Down Jones đang ở trong một môi trường có P / E trung bình của thị trường là 20,1 lần.

Hiện tại, định giá đang nằm ngay trên mức này, với P / E trên S & P 500 là 23.2x. Với bối cảnh mới này, định giá không xuất hiện đặc biệt đắt tiền nhưng vẫn ở trên mức trung bình dựa trên môi trường thị trường. Như vậy bơm tiền vào, chế độ thuế mới làm tăng lợi nhuận E. áp dụng công nghệ tự động từ khâu giao hàng trở đi khiến lương tăng nhưng tổng số lao động giảm, giảm quĩ lương thì tăng E …… Hàng loạt biện pháp đang được thi thố để kéo P/E xuống, nhất là giảm tổng quĩ lương trong khi tăng lương trên đầu người đã làm dịu nỗi lo lạm phát của Wall Street. Qua đó khống chế lạm phát dưới 3%. Những điều đó tạo ko gian cho thị trường tiếp tục tăng trưởng.

Không ngạc nhiên khi người ta vẫn đang sẵn sàng bơm thêm tiền (vì đã có hiệu quả không thắt chặt ), vẫn không có dấu hiệu tăng nguy cơ hệ thống hoặc điều kiện tín dụng xấu đi. Chênh lệch tín dụng vẫn ở mức thấp và thanh khoản vẫn dồi dào. Mặc dù Fed đã làm cạn kiệt dự trữ ngân hàng, nhưng họ vẫn còn dư dật, tổng cộng khoảng 1,9 nghìn tỷ USD. Và với việc thu hẹp định lượng, mỗi năm FED lại có thêm trong tay 600 tỷ nữa tạo ko gian để sẵn sàng thi thố. Có thể nhận thấy điều đó qua trái phiếu 2 năm cùng hàng loạt chỉ số phụ khác.

Hình 12: chênh lệch hoán đổi trái phiếu kì hạn 2 năm

Hiện tại, chênh lệch trao đổi thường thấp và hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế và tài chính lành mạnh. Khi nào chỉ số này vượt 60 hay 80 điểm thì mới đáng lo. Đứng từ góc độ chỉ số này, trong vòng 2 năm nữa chưa có suy thoái

Hình 13 : chênh lệch GI và HY

Hình trên cho thấy sự chênh lệch về mức đầu tư rủi ro thấp GI và lợi nhuận cao HY (hay còn gọi là “rác”) vẫn còn cực thấp . Mức chênh lệch càng thấp chứng tỏ nhà đầu tư chưa thấy nhu cầu phòng ngừa rủi ro. Chỉ số này cho thấy sau khi nổi còi báo động vào năm 2016, nó lại ngoan ngoãn nằm im mà lí do rất đơn giản : nhà đầu tư thấy sắp sửa có cải cách thuế, cải cách hành chính giảm bớt thủ tục nên tin vào sự tăng trưởng. Và hiện tại, trong vòng 12 tháng tới chưa thấy nguy cơ trên đường chân trời

Hình 14: chênh lệch 5-yr A1 và 5-yr swap

so sánh lợi nhuận trên trái phiếu công nghiệp loại A1 trong 5 năm với lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm. Cả hai đã tăng lên kể từ khi Fed bắt đầu tăng lãi suất. Biểu đồ số 7 so sánh mức chênh lệch trên Công nghiệp A1 trong 5 năm với chênh lệch hoán đổi 5 năm. Cả hai đều tương đối thấp mặc dù lãi suất đã tăng đáng kể. Lưu ý mức độ chênh lệch tăng trước các đợt suy thoái trước đó, tại thời điểm Fed tăng lãi suất cao hơn. Đây là xác nhận thêm rằng Fed đã không được thắt chặt. Với bất cứ điều gì, hai biểu đồ này cho thấy chúng ta vẫn đang ở giữa những gì có thể chứng minh là một sự mở rộng chu kỳ kinh doanh rất dài.

Hình 15 : tỉ lệ nợ quá hạn

cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn trên tất cả các khoản vay ngân hàng và cho thuê tính đến tháng 3 năm 2018. Tại đây, người ta vẫn thấy xác nhận rằng lãi suất tăng vừa qua không ảnh hưởng tiêu cực đến doanh nghiệp. Tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm trong gần một thập kỷ và tiếp tục làm như vậy. Ở đây cũng cần phải nói rằng đây là tính theo tiêu chuẩn basel 3, basel 4 nên nợ quá hạn 6% là đã xảy ra đại khủng hoảng. Đám ngân hàng chúng ta mà áp tiêu chí đó vào thì nợ xấu lên đến 60% là cái chắc. Chả thế mà tự nhiên mấy sếp Phạm Công Danh hay Trầm Bê có dịp uống trà tán gẫu với nhau dưới sự bảo trợ của nhà nước.

Ảnh hưởng của độ dốc đường cong lợi suất trung bình trên thị trường chứng khoán

Người ta thấy rằng dự đoán tốt hơn về thị trường gấu trong tương lai là kiểm tra độ dốc trung bình của đường cong lợi suất. Độ dốc trung bình cho một dấu hiệu của hình dạng của đường cong lợi suất. Nếu độ dốc trung bình của đường cong lợi suất gần bằng không hoặc âm, nó cho biết đường cong phẳng hoặc ngược. Để xác định độ dốc trung bình, hàm toán học biểu diễn đường cong lợi suất thu được bằng phép nội suy sprite khối Hermite được phân biệt.Đạo hàm của hàm này sau đó được đánh giá ở 500 khoảng cách đều nhau trong phạm vi ngày đáo hạn được kiểm tra (1 đến 30 năm). Độ dốc trung bình này được trình bày dưới đây.

Độ dốc trung bình tiêu cực chắc chắn là một dấu hiệu cảnh báo rằng một thị trường chuẩn bị giảm sắp xảy ra, nhưng không phải là một yếu tố dự báo hoàn hảo. Các đường cong lợi suất bị đảo lộn mạnh vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 trong cả hai thị trường chứng khoán tăng và giảm. Tuy nhiên, đường cong lợi suất trung bình tiêu cực là tín hiệu cảnh báo hoàn hảo gần để thoát khỏi thị trường chứng khoán trước khi hai thị trường sụp đổ.

Hình 16 : Độ dốc trung bình

Giá nhà ở mĩ hiện cao xấp xỉ như trước cuộc khủng hoảng tài chính làm nhiều người run sợ. FED xử lí bằng cách làm dẹt đường cong lãi suất để dập tắt ý đồ đầu cơ lướt sóng nhà ở, để thị trường chỉ còn bên bán và bên mua ở thực sự.

Lãi suất ngắn hạn đang tăng làm dẹt đường cong lãi suất. Để chống nguy cơ đảo chiều thì FED tiến hành thu hẹp định lượng, xiết nguồn cung tiền để đẩy lợi tức trái phiếu dài hạn lên

Hình 17 : đường cong và lạm phát

Fed không chỉ nhắm mục tiêu lãi suất quỹ. Những gì nó thực sự nhắm mục tiêu - nhưng hiếm khi nói ra - là tỷ lệ quỹ thực tế Real FED Fund. Vay tiền 5% khi lạm phát 1% là một việc, nhưng vay tiền 5% khi lạm phát là 10% là việc khác (trước đây có nghĩa là vay là đắt tiền, nghĩa là vay tiền là cách tốt để kiếm tiền).Chi phí vay thực sự là những gì thực sự ảnh hưởng đến hành vi. Khi khai thác tiền là rất tốn kém - khi chi phí vay thực cao - mọi người không được khuyến khích vay mượn và chi tiêu và được khuyến khích để tiết kiệm tiền; cuối cùng, nếu tỷ lệ thực tế bị ép buộc quá cao, hoạt động kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Đó là nguyên nhân gần đúng của mỗi một trong những cuộc suy thoái trong 60 năm qua.

Biểu đồ trên thực sự có hai thông điệp: 1) đường cong lợi suất ngược là một chỉ báo tốt hàng đầu về suy thoái, và 2) lãi suất ngắn hạn thực sự cao cũng là một chỉ báo tốt nhất của suy thoái. Khi cả hai điều kiện đó cùng xảy ra, đó là khi bạn cần phải lo lắng về một cuộc suy thoái. Còn lúc này chúng ta thậm chí không cần phải lo lắng.

Hình 18 : đường cong 5 năm và lãi suất thực

thông tin về độ dốc của đường cong lợi suất thực, được điều chỉnh theo lạm phát. Lãi suất thực cũng quan trọng, nếu không nhiều hơn, so với sản lượng danh nghĩa.Ngày nay, mặt trước của đường cong lợi suất thực tế được dốc tích cực (tức là sự chênh lệch giữa hai đường là dương), và nó thực sự đã tăng lên kể từ mùa hè năm ngoái. Thông điệp: thị trường đồng ý với Fed rằng lãi suất ngắn hạn, trong điều kiện thực tế, sẽ cần phải tăng trong những năm tới. Không phải là một khẳng định chắc chắn, nhưng đủ để loại trừ quan niệm rằng thị trường và / hoặc Fed đang lo lắng về sức khỏe của nền kinh tế.

Thời gian để lo lắng là khi đường cong lợi nhuận thực sự trở nên tiêu cực dốc, như đã xảy ra trước mỗi đợt suy thoái vừa qua (nghĩa là khi đường màu xanh vượt quá đường màu đỏ, vì điều đó có nghĩa là Fed đã thắt chặt quá nhiều).

Một lý do khác mà Fed cần tăng lãi suất thực tế là tăng tính hấp dẫn của 2 nghìn tỷ đô la dự trữ ngân hàng dư thừa do hệ thống ngân hàng nắm giữ.Không làm như vậy sẽ làm giảm mong muốn của ngân hàng để giữ dự trữ dư thừa, và do đó sẽ dẫn đến cho vay quá nhiều, quá nhiều tiền, một đồng đô la yếu hơn, và lạm phát gia tăng.

https://politicalcalculations.blogspot.com/2018/05/the-fed-meets-nothing-happens-recession.html#.WzeAbpCg9QA

Hình 20 : chỉ số XLY/XLP – mua hàng hóa tăng trưởng/ phòng thủ

Với nền kinh tế mĩ, chi tiêu hộ gia đình chiếm 70% GDP. Vậy việc bọn họ mua gì cũng đánh dấu rất lớn triển vọng của nền kinh tế. Chỉ số XLY theo dõi doanh số các hộ gia đình người mĩ mua hàng theo định hướng tăng trưởng như nhà cửa, đổi ô tô và TV mới, đi du lịch, đồ xa xỉ phẩm ( đá quí, trang sức, thời trang ) hay đơn giản chỉ là mua thêm quần áo mới.

XLP là những mặt hàng chủ lực của người tiêu dùng theo định hướng phòng thủ bao gồm thực phẩm, đồ uống, thuốc, sản phẩm vệ sinh và vật tư y tế, xăng đổ ô tô

Vào thời khủng hoảng chỉ số XLY/XLP thường xấp xỉ hay nhỏ hơn 1, tức người tiêu dùng có xu hướng tiêu thụ hai mặt hàng này như nhau.

Vào thời tăng trưởng , chỉ số XLY/XLP lớn hơn 1 nhiều. Nhìn vào biểu đồ, chúng ta thấy hai vấn đề :

  • Cải cách thuế của tổng thống Bush mất 2 năm mới phát huy tác dụng rồi nhanh chóng vực dậy chỉ số XLY/XLP sau cuộc khủng hoảng d o t.com. Vậy lúc này cải cách thuế của mr Trump đã ngấm vào nền kinh tế chưa và sẽ còn phát huy tới đâu?

  • Trước khủng hoảng kinh tế 2008 thì chỉ số XLY/XLP có 4 năm tươi đẹp với tỉ số > 1.60. Và hiện tại, XLY/XLP đang cho thấy chúng ta sẽ còn ít nhất 4 năm tăng trưởng nữa.

Hình 20 : nguy cơ suy thoái của kinh tế mĩ

Theo tính toán của FED , đến ngày 13/6/2018 thì nguy cơ suy thoái của kinh tế mĩ là 0.82% mà lại còn đang chúc xuống. Như thế là cao hay thấp thì xin mời các bác chém ró ạ.

Điều đáng lo ngại hôm nay không phải là đường cong lợi nhuận, mà là mối đe dọa của một cuộc chiến thương mại có thể xảy ra với Trung Quốc và những căng thẳng đang diễn ra ở Trung Đông. Nhưng đó lại là câu chiện cuối tuần khác rùi.

Cái hay nhất : lãi suất tăng thì tiền dồn vào nước mĩ, DJ tăng để làm đầu tàu kéo chợ chứng thế giới đi lên. Chúng em ủng hộ việc gắn sự biến động của VNI theo DJ . Lí do rất đơn giản : làm như thế thì khoai tây càng tin tưởng 3 sàn nhiều hơn, tiền đổ vào VNI càng nhiều hơn. Chả thế mà Nikkey sàn Tokyo cũng tăng giảm theo DJ .

Như vậy, nếu như các bảng biểu này của FED là chính xác thì về cơ bản 2 năm nữa chúng ta chưa thấy suy thoái. Vấn đề là đám bảng biểu đó có được làm đẹp hay ko thì em ko biết, các bác cứ việc tranh luận với FED và chỉ ra rằng họ đang sai nghiêm trọng. Cá nhân em cho rằng FED cũng cấy trồng số liệu, cooking như ai. Có điều trình độ của họ cao hơn, đồng thời phương thức thực hiện ko trắng trợn như sàn VNI mà điển hình là vụ MTM.

Vậy câu hỏi là bất chấp dữ liệu rõ ràng như vậy thì ai đang nổi kèn báo động suy thoái và đường cong lãi suất dẹt đi, tại sao bọn họ làm điều đó? Giới tài chính đó ạ và lí do là tiền, rất nhiều tiền.

Tổng thị trường chứng khoán trị giá 64 k tỏi trump, chợ trái phiếu trị giá 100 k tỏi trump. Nếu FED tăng lãi suất 0.25% có nghĩa là chi phí vốn của bọn họ tăng lên, khiến mỗi năm thiệt hại hơn 400 tỏi trump. Nếu như dùng vài bài báo hù dọa suy thoái và đường cong lãi suất dẹt làm cho FED lùi thời hạn nâng lãi suất 1 quí là bỏ túi thêm 100 tỏi trump zồi ( thực ra chỉ để tạo điều kiện cho FED dễ dàng mắt nhắm mắt mở khi ko nâng lãi suất thôi). Vậy tại sao ko cùng nhau thử? Và số topic về suy thoái mọc nhiều như quân nguyên là vậy. F3một9 chỉ là bức tranh thu nhỏ của nó mà thôi.

Túm váy lại : Thiên hạ cứ việc kê cao gối ngủ kĩ một khi FED tính toán ra rằng bất kể đường cong lãi suất đang dẹt đi thì xác suất suy thoái mĩ vẫn mới chỉ là 0.82% mà còn đang giảm xuống.

Ngày nghỉ post vui một topic bị con trâu trắng xàm tấu với DHA là rác rưởi cần phải xoá đi, và đã bị thằng mù đó deleted.

câu chuyện cuối tuần 63 (cũ)

Sản lượng dầu đá phiến mĩ

Chúng ta đang trong thời điểm mọi sự chú ý dồn vào dịch cúm virus Vương Miện Vũ Hán. Trận dịch này ảnh hưởng khá nhớn đến nhu cầu dầu của trung quốc, qua đó vẽ lại bức tranh tổng thể tăng trưởng cầu dầu thế giới.

Tuy nhiên cho dù dịch bệnh diễn biến như thế nào, căn cứ vào cách phản ứng của trung quốc qua các lần dịch SARS, Ebola hay đại khủng hoảng 2008 mà chúng ta có thể phác họa sơ bộ nhu cầu dầu 2020.

Bởi vì truyền thông đưa ra ảnh hưởng khủng hoảng dịch mới nói tới 1 nửa vấn đề : bọn họ chỉ nêu tác động suy giảm theo thuật toán. Còn trong thực tế , chắc chắn chính quyền trung quốc sẽ tung ra hàng loạt biện pháp kích thích nền kinh tế để vượt lên trận dịch. Đó chắc chắn sẽ là trong nhóm bơm tiền kích cầu dạng nới lỏng định lượng QE, giảm dự trữ bắt buộc RRR, cơ sở cho vay trung hạn có mục tiêu TMLF, phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu đặc biệt.

Trong số đó có lẽ hiệu quả nhất sẽ là trái phiếu đặc biệt. Các biện pháp khác coi như uống thuốc thì trái phiếu đặc biệt chính là bơm thẳng vào tĩnh mạch vậy. Còn biện pháp hạ lãi suất sẽ ko được dùng nhiều, bởi ngân hàng trung ương PBOC coi như sắp hết đạn với khẩu súng này , cho nên sẽ ít dùng.

Ngoài ra còn nhiều biện pháp điều hành khác mang tính chất dử mồi để kích thích tăng trưởng : đối nội là giảm thuế tổng thể nào đó, cấp quota xuất nhập khẩu, thưởng thuế xuất khẩu và thuế doanh nghiệp cho thương vụ lẻ; đối ngoại là chính sách nới room để thu hút vốn ngoại. Với cả rổ chính sách ứng phó như vậy, chúng ta đành chờ xem trung quốc sẽ dùng biện pháp nào để định lượng biên độ thay đổi nhu cầu dầu.

Tuy nhiên phần nhu cầu này sẽ để câu chuyện cuối tuần khác nhắc tới, còn trọng tâm topic này là chém ró về phần cung, và chuyên môn nói về sản lượng dầu đá phiến nước mĩ. Xin mời các vai chính lên sàn diễn

Hỏi: EIA dự kiến sản lượng dầu nước mĩ như thế nào?

Đáp : EIA cho rằng 2020 sản lượng dầu nước mĩ sẽ tăng 1.3 triệu thùng/ngày, 2021 tăng thêm 400 ngàn thùng/ngày nữa. Dựa trên con số này, IEA, OPEC, IMF … gia giảm mắm muối. Hậu quả là tất cả rủ nhau cùng sai.

Hỏi : Sai á, nhẽ đâu có thế?

Đáp: Thì là phản ứng dây chuyền thôi. EIA thì nhìn mặt Potus để tính, các nơi khác sử dụng số liệu của EIA nên chuyện dễ hiểu mà.

Hỏi : Vậy người trong cuộc nói sao?

Đáp : Người trong cuộc có 4 thành phần chính : EIA, các công ti dầu đá phiến, khối dịch vụ dầu khí và công nhân dầu khí.

Hỏi : Thành phần thấp cổ bé họng nhất - công nhân - bọn họ nói gì?

Đáp : EIA coi chúng tôi như lái xe UBER, chạy hết cuốc là sa thải, cần thì gọi đến. Tuy nhiên sau khi bị sa thải, chúng tôi phải đi làm nơi khác, có hợp đồng đầy đủ. Nay đột nhiên gọi về thì chúng tôi phải đền bù tiền phá vỡ hợp đồng, đương nhiên khoản đó sẽ phải cộng vào lương rồi.

Hỏi : Nhưng như vậy sẽ tăng chi phí khoan giếng, nâng giá hòa vốn lên?

Đáp : Đó là chuyện của ông chủ, tôi đây chỉ biết bán sức rồi nhận lương

Hỏi : Nhỡ ông chủ công ti không thuê công nhân nữa thì sao?

Đáp : Thì bọn họ đi gọi lái xe UBER đích thực đến để vắt dầu ra khỏi đá cát, chuyện ấy đơn giản mà, ai làm chả được. Cứ hỏi người Nga xem, bên đó đang khoan đá phiến ầm ầm.

Hỏi : Thôi được rồi, quay sang công ti dịch vụ dầu khí vậy. Xin hỏi tại sao Tam Trụ lãi gãy mất hai. Trong số 3 công ti Baker Hughes, Schlumberger, Halirburton thì có đến 2 giã từ đá phiến, chuyển sang chỉ khoan nước sâu?

Đáp : Thì đó là kết quả của việc đi làm cho thượng đế Chúa Chổm, làm xong gãi ghẻ đòi nợ, mục phải thu cứ tăng dần. Lâu lâu lại có thượng đế phá sản khiến chúng tôi đành nghiến răng khấu trừ một mớ sổ sách. Thôi thì hai người bỏ cuộc chơi lấy lỗ làm lãi. Người còn lại không bị cạnh tranh sẽ có thể tăng giá dịch vụ, vậy là cả ba đều sống khỏe. Chứ bị ép cắt đơn giá dịch vụ đến 70,80% suốt 5 năm trời, chúng tôi chịu sao thấu?

Hỏi : Té ra nhờ giảm phí khoan , tăng sản lượng mà hạ được giá thành hòa vốn cho mỗi thùng dầu đến 23%?

Đáp : Ở đâu ra vậy? Chúng tôi cải tiến đủ cách. Từ khoan giếng nào bơm dầu giếng đó tới làm cụm mẹ con 4 giếng rồi tổ hợp 49 giếng liên thông, vây mà chỉ làm tăng sản lượng có độ 6% thôi. Ở đâu ra mà tăng 23%?

Hỏi : Thế sao báo cáo là bể dầu Bakken tăng năng suất 5%, Eangle Fort tăng 6%, Appalachia tăng 25% và Permian tăng 45%?

Đáp : Vẫn kíp thợ ấy, vẫn giàn khoan ấy. Khi chuyển vùng liền thấy sản lượng tăng vọt, chuyện còn lại mời cô tự nghĩ nhóe.

Hỏi : Câu hỏi cuối cùng : vừa qua bên anh sa thải bao nhiêu công nhân?

Đáp : Trong khi số giàn khoan giảm 24%, chúng tôi mới chỉ sa thải 22% lực lượng lao động thôi, vẫn còn tử tế chán.

Hỏi : Giờ thì đến phần công ti đá phiến. Tại sao vẫn kíp thợ đó, giàn khoan đó mà sản lượng lại tăng vọt khi chuyển vùng? Chả lẽ tiến bộ kĩ thuật của bọn họ làm tăng sản lượng lại còn phải phát huy tác dụng tùy là ở bể dầu nào sao?

Đáp : Be bé cái mồm thôi, biết rồi lại còn cứ xoáy nhau à?

Hỏi : Hì hì, chắc là dùng đến mấy giếng chưa hoàn thành DUC rồi. Khoan DUC hết 30%, hoàn thành giếng chiếm 70%. Như vậy về bán chất khoan DUC từ mấy năm trước chính là trích lập dự phòng, nay hoàn dự phòng nên điểm hòa vốn giảm 30%, sản lượng tăng vọt đúng không?

Đáp :Liệu cô có câu hỏi nào hay hơn không?

Hỏi : Tại sao anh cứ phải tăng sản lượng để rồi bán với giá dầu giảm nên càng lỗ thêm?

Đáp : Thì tôi cũng muốn ngừng khai thác chờ giá tăng rồi mới bơm dầu lên. Thế nhưng mấy vị cán bộ tín dụng dở hơi ở ngân hàng cứ ép chúng tôi phải có doanh thu, phải trả được lãi vay thì mới cho đảo nợ. Cho nên biết rẻ thối mà chúng tôi vẫn phải bơm dầu lên bán. Sau đó dùng khoản hoàn trích lập dự phòng của giếng DUC để làm đẹp sổ sách, để rồi vẫn có dòng tiền dương đó thôi.

Hỏi : Vậy mất bao lâu để anh hoàn thành một giếng?

Đáp : Khoan 7-30 ngày, hoàn thành đưa vào khai thác xong mất 20-90 ngày tùy theo độ sâu của giếng. Như vậy một giàn khoan nhanh nhất mỗi tháng hoàn thành để khai thác 1.5 giếng.

Hỏi : Vậy là trung bình năm 2019 mỗi tháng hoàn thành là

Đáp : Bình quân 800 giàn nên có 1200 giếng mỗi tháng

Hỏi : Nghe nói mỗi tháng trong năm 2019 các anh hoàn thành 1400 giếng? Vậy là dùng 200 DUC mỗi tháng?

Đáp : Chưa đến, bình quân mỗi tháng trong năm 2019 chỉ dùng 140 giếng DUC thôi. Cho tới tháng 7/2019 hầu như không dùng giếng DUC, cho nên sản lượng tháng 7/2019 còn thấp hơn tháng 11/2018. Chỉ từ tháng 8/2019 mới ồ ạt khai thác DUC nên sản lượng tăng vọt từ đó.

Hỏi : À, tôi hiểu rồi. Do sản lượng giếng chỉ giữ được 6 tháng rồi giảm, cho nên nếu không đưa thêm DUC vào khai thác thì tới tháng 3/2020 này sẽ lại chứng kiến sản lượng đá phiến giảm giống như 6 tháng đầu năm 2019?

Đáp : Cô hỏi câu khác đuê!!!

Hỏi : EIA báo sắp có đợt tăng sản lượng đá phiến, vậy công ti nào sẽ đóng góp nhiều nhất?

Đáp : Exxon Mobile. Năm 2019 họ bỏ ra 3 tỉ USD vào đá phiến mà mới thu về có 3 triệu. Nếu như tính tiền khoan là 3 triệu /giếng thì riêng bọn họ có 800 tới 1000 giếng DUC đang chờ giá đẹp hơn để tiến hành hoàn thành rồi khai thác.

Hỏi : Nhưng giá WTI vừa bay từ 64 về 49, lại thêm virus Vương Miện Vũ Hán nữa?

Đáp : Thì bọn họ sẽ chờ thêm chứ sao, bên đó tiền nhiều như quân Nguyên

Hỏi : Ừ thôi vậy. Thế là số 7500 giếng DUC vẫn sẽ không đổi rồi.

Đáp : Cô đùa à? Lấy đâu ra 7500, con số đó sai lệch ít nhất 2000 , nếu không phải tới 4000 giếng!

Hỏi :Nhẽ đâu có thế? Sao EIA lại có thể đếm sai được?

Đáp : Nghiên cứu của EIA được tham chiếu ở trên trung bình khoảng 3-4 tháng giữa khoan và hoàn thành giếng- và điều này chỉ dựa trên bể dầu Bắc Dakota, vì vậy những suy luận sau đó dựa vào khu vực duy nhất ấy để đại diện cho quốc gia. Nhưng giả sử 3-4 tháng áp dụng rộng rãi hơn, điều đó bao hàm từ 3.600 đến 4.800 DUC trong hàng tồn kho. Trong sáu tháng cuối năm 2019, trung bình các giếng đã hoàn thành vượt quá mức khoan trung bình 140 mỗi tháng. Nếu như mr Raymond James và Spears & Associates nói đúng về sự quá lời của EIA, thì chúng ta đã hết hàng tồn kho DUC thực sự cô ơi

Hỏi : Anh nói rõ hơn được không?

Đáp : EIA cấp thời hạn sử dụng tương đối dài cho DUC, tuyên bố một số giếng nhất định nào đó có thể được hoàn thành và bắt đầu sản xuất sau ba năm mà vẫn còn trong tình trạng chưa hoàn thành. Ngoài ra, EIA sử dụng các giếng cũ hơn chưa bao giờ được hoàn thành trong số lượng của chúng và sử dụng FracF Focus làm nguồn suy tính ra thông tin lượng giếng hoàn thành. Do đó có thể có thời gian trễ đáng kể và có thể đánh giá quá cao số lượng.

Hỏi : Tôi vẫn chưa hiểu ….

Đáp : Ước tính DUC của EIA cao gần gấp đôi so với Phân tích toàn cầu của S & P, do sự khác biệt về phương pháp. Ví dụ: EIA đếm tất cả các giếng 20 ngày sau khi bắt đầu khoan là DUC, trong khi Platts Analytics sử dụng chu trình tự nhiên theo lưu vực, thường là 20 đến 90 ngày sau khi khoan giếng. https://www.spglobal.com/platts/en/market-insights/latest-news/oil/092719-us-producers-criticize-eia-estimates-of-ducs-clouding-production-outlook

Hỏi : Tại sao EIA lại phải đi ước tính?

Đáp : EIA phải nỗ lực ước tính DUC bởi các nhà sản xuất đã ngừng công khai dữ liệu của họ về DUC, phần lớn là để tránh những chỉ trích về việc chi tiêu vốn cho hàng tồn kho chưa hoàn thành. Thêm vào đó là ( ngập ngừng )

Hỏi :Gì nữa đây?

Đáp : EIA còn đếm luôn cả những giếng do máy khoan công cụ cáp thường được gọi là spudders tiến hành. Mấy cái máy khoan đời 1930 đó chỉ được cáicó chi phí rẻ, dùng để khoan thăm dò cho đỡ tốn tiền. DUC gì cái thứ đó. 500 anh em đá phiến đã phá sản mất 200 rồi, hiện còn 300. Mỗi quí mỗi công ty chỉ dùng spudder thăm dò 1 lần, số còn lại cô tính nhóe.

Hỏi : Nghe chừng anh có vẻ phẫn nộ với cách đếm DUC của EIA?

Đáp : Chứ còn gì nữa. Cổ đông cứ nghe thấy chúng tôi khoan nhiều giếng hơn là rủ nhau bán hết cổ phiếu rồi đi múa cột hay là nhảy Lambada. Chả thế mà ngày 28/1/2020 giá cổ phiếu Exxon trở về bằng với tháng 10/2010, tức đứng yên sau 10 năm. Thảm hơn nữa là cổ phiếu Chesapeake chỉ còn 5% giá trị so với năm 2015, bao giờ mới tăng lại 20 lần để bọn họ lẫn chúng tôi hòa vốn đây?.

Hỏi : Được rồi, theo anh thì bao giờ Exxon đưa số DUC kia vào hoàn thành?

Đáp : Ban đầu thì dự kiến là tháng 3, nhưng do virus Vương Miện Vũ Hán nên kịch bản chuyển thành tháng 4. Tức tháng 4/2020 sẽ thấy sản lượng đá phiến tăng mạnh.

Hỏi : Liệu lúc ấy giá dầu có rớt thảm hơn không?

Đáp : Cô định giết người nữa à? Hết dịch cúm thì giá dầu lại tăng, nên đợt tăng sản lượng của Exxon chỉ hãm đà tăng lại thôi.

Hỏi : À, nói về sản lượng. Anh tính sản lượng như thế nào?

Đáp : Tiết lộ cho cô biết nhé. Công thức sẽ là IP = 384.688 + (264x FS) + (323 x FSL3). Trong đó IP là sản lượng dự kiến sau 2 tháng nữa. FS có nghĩa là số lượng giếng hoàn thành tăng giảm trong tháng này và FSL3 có nghĩa là số lượng của ba tháng trở lại. Mô hình này được vẽ so với thực tế là 92% và sai số chuẩn là 2,8% so với ước tính.

Hỏi :Đơn giản vậy thôi à?

Đáp : Uh, cô cứ đếm số giàn khoan là ra số giếng tối đa tương ứng với mức 20 ngày/giếng FS. Sau đó chỉ việc thay FS là có IP (thùng /ngày). Con số này dự báo EIA sau 2 tháng nữa sẽ đưa ra sản lượng đá phiến nước mĩ ra sao, 5 năm nay nó chỉ lệch có 2.8%. Còn con số thực có Chúa biết, chúng tôi biết.

Hỏi : Vậy tại sao anh không nói cho EIA biết rằng bọn họ đang tính sai?

Đáp : Cô đùa à? EIA cần đưa ra con số mà Potus muốn nghe,chí ít là con số mà bọn họ nghĩ rằng Potus muốn nghe.

Hỏi : Vậy số giàn khoan dầu 2020 của nước mĩ sẽ bao nhiêu?

Đáp : Cứ như Halliburton dự báo thì cuối năm sẽ còn giảm 10% so với đầu năm, nếu giá WTI dưới 65

Hỏi : Vậy công thức trên sẽ cho kết quả là ….

Đáp : Đến cuối năm 2020 sản lượng dầu nước mĩ sẽ từ 12.96 đến 13.19 triệu thùng/ngày

Hỏi :Cơ sở của phép tính này là gì?

Đáp : Năm nay là năm bầu cử, số giàn khoan sẽ bị đàn áp. Đến gần bầu cử số giàn khoan mới tăng.

Hỏi :Cám ơn anh đã trao đổi

Đáp : Không có gì, muốn biết thêm chi tiết xin cô hãy hỏi EIA

Hỏi : Kính thưa EIA, ông có thể cho biết sản lượng dầu nước mĩ sắp tới sẽ thế nào?

Đáp : Ồ, cái đó cô chờ văn bản thông báo chính thức hàng tuần nhé

Hỏi : Nhưng tối có nghe nói khối công ti đá phiến xin được tham vấn?

Đáp : Cũng được thôi, tôi sẵn lòng gặp. Chỉ cần bọn họ có giấy giới thiệu của phường là ổn

Hỏi : Dạ em hiểu rồi. Lên phường , có khi còn được mời uống nước nữa đấy

Chúng ta tiếp tục với câu chuyện hồi tháng 5/2020. Do sợ cúm Kung Fu nên hồi đó em đã lỡ con sóng hồi VNI. Tuy nhiên đến cuối năm cũng vớt được khoản lãi 25%, tạo tiền đề cho năm 2021 rực rỡ.

Câu chuyện cuối tuần 65 ( Cũ)

Bác sĩ lang băm FED-phần 1

Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Từ ngày 23/3 đến nay, mặc kệ thiên hạ đua nhau mua bán, chúng ta cứ ôm tiền ngắm nhìn thời cuộc. Một phần là khủng hoảng 2008 nổ ra khi chúng còn đang ngồi ghế cấp 2 cấp 3, một phần khác là chúng ta dị ứng với slogan “ đừng chống lại FED”. Vậy nên chúng ta bị nhỡ một con sóng hồi khá nhớn. Nhưng không sao, DJ còn rớt lần nữa thấp hơn 18000 điểm. Còn VNI lại thủng 600. Vậy bác nào khó chịu thì không cần thiết đọc tiếp Câu chuyện cuối tuần này nữa.

Vừa qua thế giới vật lộn với căn bệnh Kung Fu COVID bí hiểm, chỉ số Dow Jones DJ rớt thảm, dân tình nháo nhác. Viện trưởng gà mờ Potus huy động cả guồng máy tam đầu chế xúm vào cấp cứu. Sau một hồi vật lộn, cuối cùng bác sĩ FED trịnh trọng thông báo “ Ca phẫu thuật đã thành công mĩ mãn, còn bệnh nhân thì đã ngoẻo”. Ngoẻo chứ không phải ngoẹo nha, đó là ngỏm củ tỏi, là died. Ca phẫu thuật ở đây đương nhiên là công cuộc trục vớt DJ rồi, còn bệnh nhân thì là con bò trên Wall Street. Chú bò này đang khoẻ như vâm, lập hết kỉ lục này tới kỉ lục khác. Thể nhưng chỉ cần dính phải căn bệnh Kung Fu COVID là nó lìa trần thế , hưởng dương 11 năm.,
Thôi thì chúng ta để chú bò này cho câu chuyện cuối tuần khác, ở đây chỉ bàn về động thái của FED khi trục vớt DJ mà thôi. Vậy FED đã hành động như thế nào?
Trước khi phẫu thuật FED đã mài dao kéo, sát trùng hết sức cẩn thận không để lại kẽ hở nào. Sát trùng khử khuẩn ở đây là hạ lãi suất, đưa lãi suất về xấp xỉ bằng không là 0.25%/năm.
Bước tiếp theo là bơm thuốc tăng sức đề kháng cho bệnh nhân. Ở đây cả viện trưởng gà mờ và FED đều bỏ ra rất nhiều công sức. Potus thì thống nhất với lưỡng viện quốc hội liên tiếp bơm 3 liều thuốc QE, liều sau mạnh hơn liều trước và liều thứ 3 đã đạt kích cỡ 2200 tỏi trump. Còn FED thì bơm 2300 tỏi . Chúng ta cùng điểm qua các động thái dao kéo của FED
• 17 tháng 3: Giảm bộ đệm vốn điều tiết ngân hàng
• 17 tháng 3: Thành lập CPFF, Cơ sở tài trợ giấy thương mại để mua giấy thương mại
• 17 tháng 3: Thành lập PDFF, cơ sở tín dụng đại lý chính để hỗ trợ các đại lý chính
• 18 tháng 3: Thành lập MMMLF, Cơ sở thanh khoản quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ
• 19 tháng 3: Thiết lập cơ sở hoán đổi đô la với các ngân hàng trung ương nước ngoài
• 19 tháng 3: Tăng mức giảm giá sẵn có và các khoản vay
• 20 tháng 3: Thông báo nỗ lực phối hợp với các ngân hàng trung ương nước ngoài lớn
• 20 tháng 3: Mở rộng MMMLF để bao gồm miễn thuế và trái phiếu đô thị
• 20 tháng 3: Nới lỏng các quy tắc tín dụng và khuyến khích người cho vay làm việc với người vay
• 23 tháng 3: Thông báo QE không giới hạn và mua các Cơ quan và Chứng khoán Kho bạc khi cần thiết để giải quyết các điều kiện thị trường. Các giới hạn trước đây được đặt ở mức $ 500B cho Kho bạc và $ 200 B cho các đại lý.
• 23 tháng 3: Thành lập PMCCF, cơ sở tín dụng doanh nghiệp thị trường sơ cấp
• 23 tháng 3: Thành lập SMCCF, cơ sở tín dụng doanh nghiệp thị trường thứ cấp
• 23 tháng 3: Thành lập TALF, Cơ sở cho vay tài sản có kỳ hạn để mua các khoản vay sinh viên, vay mua ô tô, cho vay hỗ trợ tài sản
• 30 tháng 4: Fed mở rộng quy tắc cho nỗ lực cho vay $ 600B được thiết kế để tiếp cận các doađổ h nghiệp vừa và nhỏ
Với những động thái như vậy của FED, từ 23/3 chỉ số DJ bắt đầu tăng. Chúng ta bắt đầu mổ xẻ các động thái của FED. Việc TALF mua khoản vay sinh viên, vay mua ô tô …. thì trong thực hành ngân hàng chúng ta đã quá quen với cụm từ lấy nợ nuôi nợ. Đó là việc khoanh nợ cũ để con nợ có thời gian hồi sức trở lại rồi trả nợ tiếp. Nếu đòi ráo riết quá thì con nợ chỉ còn nước lăn đùng ra là ngân hàng mất tiền, mất khách hàng. Tất nhiên Ngấn hàng nào chả muốn nuôi nợ, thế nhưng chỉ khi có FED gánh đỡ phần nào khoản nợ thì mới có cơ sở để ngân hàng khoanh nợ.
Nước mĩ nợ như chúa chổm, đương nhiên có cả nợ nước ngoài. Tài sản của nước mĩ ở bên ngoài là 29.000 tỉ đô la. Thế giới đầu tư vào mĩ 40.000 tỉ đô la. Khoản chênh 11.000 tỉ đô la này thì trái phiếu chính phủ mĩ gánh vác 6.000 tỉ rồi, còn 5.000 tỉ nữa thì nằm ở đủ các dạng, đương nhiên là có trên thị trường chứng khoán.
Thế nhưng khi DJ giảm, trị giá số tài sản đảm bảo cho khoản nợ đó bị hao hụt. Vậy là chủ nợ nước ngoài phải mua đô la để bù đắp chỗ hao hụt đó trên sổ sách. Điều này khiến lãi suất vay đô la cũng như chỉ số đồng bạc xanh tăng phi mã. Vậy là FED phải bơm tiền cho 6 ngân hàng trung ương nước ngoài lớn để ngăn chặn hiện tượng này. Nếu không lãi suất tăng sẽ từ nước ngoài tràn vào nước mĩ, để rồi nỗ lực hạ lãi suất của FED bị đổ sông đổ bể.
Nhưng quan trọng nhất là những tác động trực tiếp tới Dow Jones. Mặc dù FED không bỏ ra xu rách nào để mua cổ phiếu, thế nhưng những động thái của nó lại điều hướng dòng tiền chạy vào cổ phiếu. Đối tượng FED nhắm đến có cả quĩ chủ động hợp tác với FED như quĩ BlackRock quản lí 4000 tỉ USD. Nhưng nhiều hơn là các quĩ chịu tác động, đó là dòng tiền 3000 tỉ USD bỏ chạy khỏi lãi suất âm của Nhật bản và châu Âu, đó là các các quĩ mục tiêu, quĩ hưu trí, quĩ tài sản nhà nước tương tự Temasek. Tức là FED nhằm vào các đối tượng cai quản khoảng 10.000 tỉ trên tổng số 20.000 tỉ USD do các quĩ tương hỗ đổ vào sàn DJ.
Điều lệ của các quĩ này có 1 điểm chung : luôn phải duy trì tỉ trọng 60% cổ phiếu và 40% trái phiếu. Trong quí các quĩ muốn mua bán kiểu gì cũng được, thế nhưng đến ngày chốt NAV của quí thì phải đảm bảo cơ cấu 60:40 này. Và FED nhằm chính vào đó.
Vào ngày 23/3 DJ chạm đáy mất 31.3% , tức 6000 tỉ chỉ còn 4100 tỉUSD . Trong khi cùng thời gian đó trái phiếu tăng 9% lên 4400 tỉ USD khiến tỉ lệ cổ phiếu / trái phiếu trở thành 48: 52. Theo điều lệ thì vào ngày 31/3, quĩ phải đảm bảo tỉ trọng 60:40. Vậy là các quĩ buộc phải bán 500 tỉ USD trái phiếu để có tiền mua cổ phiếu. Đúng vào thời điểm đó, quĩ BlackRock xuống tay mua cổ phiếu. Do Black Rock toàn dùng máy tính quét lệnh MP mua nên các quĩ khác cũng dồn tiền mua theo, vậy là DJ từ từ tăng lên. Theo thống kê từ xưa tới nay, nếu có 30 tỉ USD/phiên đổ vào để mua cổ phiếu thì DJ có thể tăng 500-1000 điểm/phiên. Với 500 tỉ USD bị cưỡng ép chuyển hệ từ trái phiếu sang cổ phiếu này chỉ trong 6 phiên giao dịch từ 23/3 đến kì chốt NAV cuối tháng, DJ đủ sức cá hồi khá mạnh.
Để cho phê hơn, vào ngày 30/3 FED còn tuyên bố sẽ mua trái phiếu rác. Mặc dù luật cấm FED trực tiếp mua cổ phiếu chứ đừng nói tới mua cổ phiếu rác, thế nhưng BlackRock làm đại lí cho FED lại có thể mua trái phiếu của những mã rác. Dân bản suy luận rằng một khi FED đã chống lưng thì cổ phiếu của đám mã rác đó hẳn là thơm chán, vậy là họ lại xúm vào mua cổ phiếu rác. Như vậy sau khi hết sự hỗ trợ từ kì chốt NAV quí, FED liền tung ra con bài mới để dụ hoặc dân bản. Thế là DJ tăng lên một cách thần kì. Đáng tiếc rằng chúng ta không trải qua năm 2008 nên không biết tới điều đó.
Ở đây chúng ta phải thấy khâu chuẩn bị giải phẫu của FED quá lợi hại. Khi FED đưa lãi suất về mo thì lợi tức trái phiếu giảm theo và nhỏ hơn 1%. Điều đó càng khiến các quĩ quyết tâm hơn trong việc bán trái phiếu và chuyển sang mua cổ phiếu, nhất là những cổ phiếu đã được FED bảo đảm
Tất nhiên một mình FED cũng không đủ sức trục vớt DJ như vậy, nó còn được hỗ trợ bởi nhân tố khác. Trong lúc cả nước mĩ bị cách li, media đã nhồi điều đó vào đầu các nhà phân tích. Trong cách li thì người lao động ngồi nhà, công ti đóng cửa. Do đó không ai biết được kết quả kinh doanh của mình sẽ ra sao nữa, chả ai dám đưa ra dự báo lợi nhuận của doanh nghiệp vào quí 3 quí 4 năm nay nữa… Vậy là chính quyền Potus cùng với media liền đóng vai đà điểu rúc đầu xuống cát.
Một khi đã không biết được kết quả kinh doanh, các nhà phân tích liền bỏ qua sạch trơn mọi dữ liệu của năm 2020, thay vào đó bọn họ chỉ sử dụng dữ liệuu của năm 2021 để tính toán chỉ số DJ 2020, cái gọi là chứng khoán đi trước thực tế 6-9 tháng. Nhờ trí tưởng tượng cao như vậy, DJ liền bỏ qua hết sạch trơn mọi dữ liệu bất lợi của năm 2020. Nào là số thất nghiệp tăng phi mã, nào là chuỗi sản xuất và kinh doanh đứt đoạn, nào là số người chết vì bệnh Kung Fu COVID đang tăng lên từng ngày …. Tất cả dữ liệu đó đều bị bỏ qua hết. Nhờ vào chính sách tình nguyện làm đà điểu như vậy, DJ đã phục hồi 31% kể từ ngày 23/3, quả là phương pháp AQ đầy hữu hiệu.
Và điều hay ho đến chính từ đây, từ phương trình lợi nhuận Kalecki :
Lợi nhuận doanh nghiệp = Đầu tư + Cổ tức / Mua lại - Tiết kiệm hộ gia đình - Tiết kiệm của chính phủ - tiết kiệm của phần còn lại thế giới.
Chính dựa vào phương trình Kaleski này mà các phần mềm mới chạy rào rào để vẽ ra kịch bản tăng trưởng mạnh mẽ cho năm 2021 và 2022. Mọi nhân tố bất lợi đều được bỏ qua hết, khi mà người ta nhìn thấy tương lai sáng ngời của lợi nhuận doanh nghiệp trong năm tiếp theo. Trên thực tế năm 2021 vẫn đầy rẫy khó khăn. Đầu tư của doanh nghiệp sẽ sụp đổ hơn 30% . Cổ tức và mua lại sẽ hao hụt hơn 20% . Tiết kiệm hộ gia đình sẽ tăng hơn 20% . Toàn là nhân tố bất lợi cả. Thế nhưng không hề gì, bởi hai nhân tố còn lại thì quá ư thuận lợi.
Đầu tư ròng, cổ tức và mua lại, tiết kiệm hộ gia đình và tiết kiệm của phần còn lại thế giới tổng cộng đạt tới 4,7 nghìn tỉ đô la vào năm 2019. Thế nhưng chính phủ mĩ năm nay chẳng tiết kiệm được xu mẻ nào cả, thay vào đó dự kiến nó sẽ thâm hụt 3700 tỉ đô la, tức chỉ riêng nước mĩ đã bơm số tiền tương đương 78% của ba yếu tố đầu tiên trong năm 2019. Và khi tính tất cả các khoản bội chi từ các chính phủ trên thế giới năm nay, người ta có được con số 6000 tỉ đô la rất đáng khích lệ. Vậy là năm 2020 mặc nhiên được đầu tư tương đương 127.6% so với năm 2019.
Tiền rót thêm vào nhiều như vậy, đến 2021 nó sẽ ngấm vào nền kinh tế và đẩy lợi nhuận các công ti tăng vọt, ít nhất tăng 25%. Đó là cơ sở để cho DJ tăng thêm 25-30% nữa, phép tính thật là đơn giản. Điều đáng tiếc là chúng ta biết đến phương trình Kalecki này quá muộn. Cứ cái gì không biến thành thức ăn nhồi vào cho bé robot của mình thì chúng ta không tin. Vì thế chúng ta đã bỏ lỡ con sóng hồi vừa rồi, đó là cái giá phải trả vì chưa từng trải qua cuộc khủng hoảng 2008.
Nhưng không sao, sau này nếu có cuộc khủng hoảng nào nữa thì chúng ta đã trang bị đến tận răng để chống đỡ. Ngoài ra, DJ sẽ còn phải thủng ngưỡng 18.000 điểm, đó là cơ hội để chúng ta tận thu gặt hái. Có điều đó là phần 2 của câu chuyện này, phần đã biến FED trở thành bác sĩ lang băm bất chấp những kết quả đạt được trong công cuộc trục vớt DJ vừa rồi. Hẹn tuần sau lại chém ró tiếp.

chúngta lại tiếp tục với 1 câu chuyện post năm 2018 bị con trâu trắng coi là rác rưởi và xúi thằng DHA xoá đi

Câu chuyện cuối tuần 20 ( chuyện thứ nhất)

Ngành xi măng : một năm tới đầy triển vọng

  1. Tổng quan ngành xi măng thế giới :

Sản lượng xi măng các nước hàng đầu thế giới năm 2017 ( triệu tấn)

Tàu khựa : 2400

India 280

Mĩ 86.3

Việt nam 78

Thổ nhĩ kì 77

Indonesia 66

Saudi 63

Hàn quốc 59

Egypt 58

Nga 58

Riêng tàu khựa qua các năm gần đây ( triệu tấn)

2012 : 2210 ,

2013 : 2420

2014 : 2480

2015 : 2350

2016 : 2410

2017 : 2400

Các nước xuất khẩu xi măng hàng đầu 2016

China: US$692.4 million (7.6% of total cement exports)

Thailand: $612.2 million (6.8%)

United Arab Emirates: $544.4 million (6%)

Turkey: $494.8 million (5.5%)

Germany: $486.3 million (5.4%)

Spain: $477.3 million (5.3%)

Vietnam: $403 million (4.4%)

Japan: $391.3 million (4.3%)

Canada: $368.7 million (4.1%)

India: $267 million (2.9%)

Các nước sản xuất clinker hàng đầu thế giới 2017 ( triệu tấn)

Tàu khựa : 2600

India : 280

Mĩ : 109

Việt nam : 90

Nga : 80

Iran : 80

  1. Tình hình xi măng tàu khựa : Do vi thế của tàu khựa trong ngành sản xuất xi măng thế giới, do hoàn cảnh địa lí nằm sát chúng ta nên xi măng tàu khựa có tác động lớn tới nước ta. Vì thế chúng em đi sâu vào tàu khựa, còn Thái Lan, Indonesia cũng có ảnh hưởng, nhưng mức độ tác động ko lớn bằng.

Tàu khựa là nước sản xuất và bán xi măng lớn nhất thế giới, với năng lực sản suất mỗi năm là 3,5 tỷ tấn, nhưng trong đó có 30% năng lực sản xuất đang đối mặt với thặng dư. Do vậy sản lượng hàng năm chỉ còn 2.4-2.5 tỉ tấn xi măng.

Trong thời đại của nền kinh tế kế hoạch, sản phẩm xi măng được sử dụng nhiều trở thành “đắt hơn rượu Mao đài” do thiếu nguồn cung nghiêm trọng. Tuy nhiên, từ năm 2014 đến nửa đầu năm 2016, ngành xi măng tàu khựađã rơi vào tình trạng dư thừa sản lượng và thu nhập sụt giảm nghiêm trọng . Kết quả trực tiếp của sự dư thừa là cuộc chiến giá cả thường xuyên, các nhà máy xi măng trong khu vực cạnh tranh nhau khiến giá thấp hơn. Sau một hồi buộc tội lẫn nhau, toàn bộ ngành công nghiệp lâm vào tình trạng rối loạn, hầu hết các công ty đã bắt đầu rơi vào thua lỗ. Trong số đó, vùng Bắc Trung Quốc, Đông Bắc Trung Quốc và những nơi khác đã trở thành khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Ngành xi măng tàu ban đầu dùng mô hình Liên Xô, với các loại xi măng khác nhau (xi măng Portland, xi măng portland thông thường, xi măng xỉ, xi măng Portland pozzolana, xi măng tro Portland, Xi măng Portland hỗn hợp ) được chia thành các loại khác nhau theo các cấp độ cứng, chẳng hạn như 32,5, 42,5 và 52,5. Trong khi châu Âu, Nhật Bản và các nước và khu vực phát triển khác chỉ xác định bằng một loại xi măng tiêu chuẩn, như ASTM150-2014 JIS5210-2009 (xi măng Portland) của Mỹ và Nhật Bản. Các tiêu chuẩn xi măng này tập trung hơn vào các chỉ số hóa học và các chỉ số vật lý . Điều này đòi hỏi ngành công nghiệp xi măng tàu khựa phải có “lương tâm tương xứng”, nếu ko với cùng 1 loại sẽ ra sản phẩm đủ cấp độ khác nhau.

Việc phân loại các mức cao, trung bình và thấp trong một danh mục xi măng bị ràng buộc dẫn đến sự hỗn loạn trong chất lượng dự án. Loại xi măng 32,5 chủ yếu được sử dụng trong công trình dân dụng, có độ bền thấp nhất. Chính loại xi măng 32.5 này trong cuộc chạy đua hạ giá đã lập những kỉ lục vô tiền khoảng hậu. Ví dụ như với 1 tấn clinker người ta có thể làm ra hơn 2.5 tấn xi măng. Còn loại xi măng đó xây được cái gì lại là chuyện của người sử dụng.

Hiện các nhà máy làm xi măng 32.5 chiếm 1 nửa sản lượng xi măng tàu khựa. Đó thường là những nhà máy xi măng nhỏ , trang thiết bị lạc hậu, giá thành cao, gây ô nhiễm lớn. Những cơ sở này không đủ tiền mua thiết bị bảo vệ môi trường và buộc phải đóng cửa đầu tiên trong quá trình cải tạo ngành xi măng để đáp ứng đòi hỏi cải thiện môi trường.

Tàu khựa giảm công suất ngành xi măng bằng cách phê duyệt các đơn vị đáp ứng tiêu chí môi trường. Có điều địa phương nào muốn được duyệt 1 tấn tiếp tục sản xuất thì phải đóng cửa 1.25 -1.50 tấn khác. Nếu ko sẽ bị cắt điện, cắt than , ko cho vay vốn ngân hàng.

Bên cạnh đó, tháng 12 năm 2017 , Hiệp hội Xi măng đã ban hành “kế hoạch hành động 2018-2020 của ngành công nghiệp xi măng”. Mục tiêu của “Kế hoạch hành động” 2018–2020 là cắt giảm năng lực sản xuất clinker đi 392 triệu tấn, đóng cửa 540 trạm nghiền xi măng ở các doanh nghiệp. Phấn đấu nâng tỷ lệ sử dụng công suất trung bình toàn quốc trong khâu sản xuất clinker là 80%, tỷ lệ sử dụng công suất trung bình của sản xuất xi măng là 70%.

Kế hoạch phấn đấu tới năm 2020, sản xuất clinker của 10 nhóm doanh nghiệp lớn có thể tập trung trên 70% sản lượng xi măng với tỉ lệ sử dụng công suất sản xuất đạt hơn 60% . Phấn đấu phấn đấu để tập trung năng lực sản xuất clinker của hai công ty hàng đầu tại 10 tỉnh, thành phố đạt trên 65%. Các công ty khác hoặc sát nhập, hoặc thu nhỏ hoặc đóng cửa.

Theo phân tích mục tiêu, trong năm 2018, kế hoạch là giảm sản lượng clinker đi 13.580.000 tấn trên toàn quốc và đóng 210 nhà máy nghiền xi măng coi như đã hoàn thành, sẽ không có sự sụt giảm đáng kể nữa.

Xi măng là một trong những hàng hóa bị ảnh hưởng bởi bán kính địa lý, trọng lượng của nó xác định việc vận chuyển đường dài bằng đường bộ là không kinh tế. Do vậy theo các chuyên gia trong ngành, về cơ bản, xi măng ở mỗi tỉnh đạt được mức độ tiêu thụ của tỉnh. Trong phần lớn trường hợp nếu nó được chuyển qua các tỉnh khác, thì sẽ không có lợi thế cạnh tranh cho việc vận chuyển đường dài và giá bán.

Việc tiêu thụ xi măng có liên quan chặt chẽ với dân số, cũng sẽ có sự gia tăng doanh số bán xi măng ở những khu vực có tăng trưởng kinh tế và tăng dân số. Các nhà phân tích tin rằng trong vài năm tới, Đông Trung Quốc và Đông Bắc Trung Quốc sẽ vẫn là lĩnh vực chính của toàn bộ tiêu thụ xi măng. Thế nhưng vùng này coi như đã hết đà tăng trưởng, chủ yếu từ nhu cầu đô thị hóa coi như bị hàng loạt qui định hạn chế.Trường hợp đặc biệt là ở vùng Tây Nam, đó là khu vực vẫn còn khả năng tăng trưởng doanh thu.

  1. Ngành xi măng tàu khựa trong giai đoạn sắp tới:

Sự phát triển ngành xi măng tàu khựa phụ thuộc các yếu tố sau:

a. Tổng đầu tư xã hội vào tài sản cố định:

Toàn bộ đầu tư của xã hội vào tài sản cố định vẫn chưa kết thúc đà giảm tốc độ tăng trưởng kể từ khi suy thoái năm 2010. Tốc độ tăng trưởng thậm chí sẽ thấp hơn trong năm nay, dự kiến ​​sẽ tăng khoảng 6,2%, đạt trị giá 68 nghìn tỷ CNY . Trong số đó, các hộ gia đình nông thôn có tổng vốn đầu tư 950 tỷ nhân dân tệ, 70% trong số đó được sử dụng để xây dựng nhà ở và họ tiếp tục thu hẹp trong năm 2015.

b. Đóng góp của các ngành khác nhau vào tăng trưởng đầu tư vững chắc :

Mũi đinh ba ảnh hưởng tới sự tăng trưởng đầu tư vững chắc bao gồm sản xuất, cơ sở hạ tầng và bất động sản, chiếm tới 80% tổng mức đầu tư. Trong số đó, đóng góp lớn nhất cho sự tăng trưởng của đầu tư vững chắc là xây dựng cơ sở hạ tầng, ngành bất động sản đứng thứ hai. Sự đóng góp của ngành bất động sản vào sự tăng trưởng của đầu tư vững chắc đã giảm xuống mức rất thấp trong năm 2015.

b1. Xây dựng cơ sở hạ tầng (17 nghìn tỷ NDT, tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng đầu tư vững chắc là 60%): Tổng mức đầu tư vào công nghiệp quản lý cơ sở công cộng + công nghiệp vận tải đường bộ đạt 10,8 nghìn tỷ NDT, chiếm 63% tổng số công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, con số này là cao nhất trong lịch sử, và đó là lực lượng cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng đầu tư cơ sở hạ tầng. Thứ hai, trong quá trình đô thị hóa, cơ sở hạ tầng của các cơ sở công cộng và đường bộ đang phát triển với tốc độ nhanh và tốc độ tăng trưởng trên 20%, đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được tốc độ tăng trưởng hiện tại của xây dựng cơ sở hạ tầng.

b2. Ngành bất động sản (14 nghìn tỷ NDT, đóng góp 13% vào tăng trưởng đầu tư vững chắc): Sẽ có áp lực giảm về diện tích xây dựng, diện tích xây dựng nhà mới và tốc độ tăng trưởng đầu tư vào năm 2018. Việc tăng nguồn cung cấp đất đầu tiên và tầng hai sẽ tạo thành sự hỗ trợ cho đầu tư và khởi động mới. Tốc độ tăng trưởng thu hồi đất trong năm 2017 chủ yếu được đóng góp từ phía Đông Trung Quốc. Đến cuối mùa đông thì nhu cầu bất động sản vẫn là một yếu tố hỗ trợ; Có điều nhu cầu xi măng Đông Bắc, Bắc Trung Quốc vẫn là không lạc quan về ngắn hạn do hạn chế xây nhà cửa mới ở khu vực này.

Trong năm 2018 , những thay đổi trong nhu cầu xi măng sẽ nằm trong khoảng giảm 1-3%, mức giảm nhẹ có xác suất lớn hơn. Tiêu thụ clinker là về cơ bản tương tự năm ngoái, khoảng 1,4 tỷ tấn ± 100 ngàn tấn

Cục Thống kê dữ liệu Quốc gia tàu khựa cho thấy tổng sản lượng xi măng quí 1 năm 2018 là 376 triệu tấn, giảm 4,51 phần trăm so với năm trước. Tháng một-tháng 3 sản xuất tích lũy là 247 triệu tấn clinker trên phạm vi cả nước, giảm 1,67% so với năm trước

  1. Loại bỏ xi măng 32.5 :

Hiện nay, có hơn 2.000 trạm nghiền độc lập (bao gồm tỷ lệ trạm nghiền theo công suất sản xuất clinker của TOP10), áp lực sống sót ngày càng tăng, và một số sẽ bị rút khỏi thị trường để đưa tổng số chỉ còn 69% hiện tại.

Từ tháng 1, Thượng Hải cấm việc sử dụng xi măng Portland thông thường dạng 32,5 và 32.5R vào trong vữa trộn sẵn, vật liệu tường, hỗn hợp bê tông tươi, bê tông đúc sẵn và vào các sản phẩm xi măng khác. Việc loại bỏ Xi măng 32.5 cấp thấp có thể tăng tiêu thụ clinker lên hơn 20 triệu tấn. Còn trong khuôn khổ toàn quốc sẽ khiến tăng nhu cầu clinker lên 20%, điều này giúp giảm bớt mâu thuẫn giữa cung và cầu sản xuất clinker. Thứ hai, việc loại bỏ xi măng cấp 32.5 có thể đáp ứng thị trường từ cấp độ kỹ thuật.gắn với yếu tố nhanh chóng nâng cao chất lượng. Quan trọng hơn, việc loại bỏ xi măng loại 32.5 có thể cải thiện chất lượng xây dựng. Các trạm nghiền clinker nhỏ do nguồn clinker và chi phí sản xuất cao sẽ thúc đẩy quá trình chuyển đổi sản xuất. Việc chuyển đổi các trạm nghiền nhỏ thành sản xuất phụ gia bê tông hoạt động cao cũng là một hướng phát triển.Thứ ba, thúc đẩy mạnh mẽ việc loại bỏ năng lực sản xuất lạc hậu, đạt được chất lượng công nghiệp và hiệu quả.Một gợi ý rằng chính phủ đưa ra chính sách về cấp phép, sản xuất, buộc phải loại trừ các cơ sở clinker (xi măng Portland) công suất 2500 tấn / ngày và đường kính máy nghiền xi măng nhỏ hơn 3 mét ra khỏi thị trường.

Đối với vấn đề “loại bỏ 32,5 xi măng cấp thấp”, ngành công nghiệp này từ lâu đã được ngành công nghiệp công nhận là “xương cứng” vốn là phần khó khăn nhất trong vài năm qua. Khi nào nó sẽ được loại bỏ, làm thế nào nó sẽ được loại bỏ, bao nhiêu nó sẽ được loại bỏ? Nhiều vấn đề cần được giải quyết, và cho đến nay không có giải pháp tốt được tìm thấy. Ngay cả khi nhà nước đã chỉ đạo rõ ràng rằng trong số xi măng cấp thấp 32.5 cần được loại bỏ càng nhanh càng tốt, thì sẽ rất khó để triển khai xong trong năm năm. Bởi nhiều cơ sở mới đưa vào hoạt động sau 2010, chưa hết khấu hao. Các loại xi măng cấp độ khác, việc loại bỏ đường thậm chí còn kéo dài hơn.

Thế nhưng từ lịch sử phát triển xi măng ở châu Á, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ, có thể dự đoán trong ba năm tới, nhu cầu xi măng của Trung Quốc sẽ giảm xuống dưới 2 tỷ tấn, và sẽ xuống dưới 1,5 tỷ tấn trong vòng 10 năm tới. Còn sau 15 năm sẽ giảm đến mức 1 tỷ tấn trở xuống. Vì thế sau khi loại bỏ hết công suất 1.7 tỷ tấn xi măng 32.5 sẽ vẫn phải tiếp tục loại bỏ thêm một số nữa trong xi măng 42.5 và 52.5.

  1. Giá bán xi măng :

hai tính năng chính của giá xi măng trong năm 2018: Thứ nhất, giá đã bước vào một phạm vi cao 350-400 CNY/ tấn , tăng 35% so với đầu năm 2017. Thứ hai, sự biến động giá trong năm đã bị thu hẹp (thu hẹp xuống còn 100 NDT / tấn [350 ~ 450])

Năm 2016 vì giá thấp, do đó, giá chỉ dao động trong khoảng 75 nhân dân tệ / tấn, giá quay trở lại vị trí trung tâm của năm dương lịch; Năm 2017 chênh lệch giá hàng tháng trung bình giữa các giá trị cao nhất và thấp nhất là 140 nhân dân tệ / tấn, mức cao nhất trong gần 17 năm .

Thế nhưng trong 2018, giá trung bình hàng tháng không thể duy trì trên 500 CNY/tấn. Đầu tiên, do môi trường vượt cungvẫn không thay đổi. Thứ hai, tỷ suất lợi nhuận bán hàng trong ngành nên được giữ trong phạm vi hợp lý để đáp ứng nhu cầu của chuỗi công nghiệp (xây dựng hạ lưu, doanh nghiệp thương mại), và của biên lợi nhuận bán hàng công nghiệp (đề phòng rủi ro chính sách);

Thứ ba, xi măng nước ngoài, clinker (bao gồm cả từ bắc xuống nam, clinker Việt Nam) sẽ có ít nhiều tác động đến giá cả.

Có thể dự kiến ​​nhu cầu xi măng sẽ tiếp tục tăng trong năm 2018 và sẽ không có sự sụt giảm đáng kể. Sự biến động của tăng trưởng cung cầu trong ngành xi măng dự kiến ​​sẽ tiếp tục thu hẹp, và khoảng cách giữa cung và cầu dự kiến ​​sẽ hội tụ thêm và duy trì một dao động nhẹ.

  1. Xi măng Việt nam

Tổng sản lượng xi măng Việt Nam đến năm 2020 có thể lên tới 120-130 triệu tấn/năm, trong khi theo dự báo tại Quy hoạch phát triển xi măng thì sức tiêu thụ nội địa ước tính chỉ khoảng 93 triệu tấn. Như vậy, khả năng dư thừa từ 25-35 triệu tấn xi măng là hiện hữu.

Theo ông Nguyễn Quang Cung - Chủ tịch Hiệp hội xi măng Việt Nam thì từ năm 2017 trở đi, ngành xi măng sẽ bắt đầu dư thừa do công suất tăng mạnh trong thời gian gần đây.

Đến hết năm 2016, tổng công suất thiết kế của ngành xi măng đạt gần 88 triệu tấn/năm. Thế nhưng, vẫn còn các dự án đang tiến hành đầu tư và dự kiến hoàn thành trong năm 2018 tiếp tục nâng tổng công suất thiết kế toàn ngành lên 108 triệu tấn/năm. Trên thực tế, hiện các nhà máy xi măng đang hoạt động cũng chủ động đầu tư cải tiến kỹ thuật, công nghệ các dây chuyền sản xuất nên sản lượng tiếp tục tăng.

Đặc biệt, sau một thời gian phát triển nóng, thị trường xi măng Trung Quốc đã dư thừa khoảng 670 triệu tấn, càng làm cho sự cạnh tranh về giá bán trên thị trường xuất khẩu của xi măng Việt Nam đã khó khăn càng thêm nhiều áp lực. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch sản xuất của các doanh nghiệp xi măng.

Chịu ảnh hưởng xi măng tàu, bức tranh xi măng Việt nam 2017 có 2 màu rõ rệt Nửa đầu năm 2017, đã có 9 doanh nghiệp xi măng niêm yết công bố BCTC với 67% đơn vị ghi nhận lãi giảm, 2 đơn vị báo lỗ. Tổng doanh thu theo thống kê đạt 5,029 tỷ đồng, giảm nhẹ 5% so với cùng kỳ năm 2016. Trong khi lãi ròng giảm mạnh hơn 75%, chỉ còn đạt mức 107 tỷ đồng. Và xã hội chuẩn bị điệp khúc giải cứu xi măng tiếp theo giải cứu thịt heo. Tuy nhiên nửa cuối năm 2017, tăng trưởng xuất khẩu sang tàu khựa đã cho thấy game màu sáng hơn.

Cả năm 2017, toàn ngành ước đạt khoảng 65 triệu tấn, tăng 4 triệu tấn, khoảng 7% so với cùng kì năm trước.Sản lượng tiêu thụ xi măng cả năm đạt 62 triệu tấn, tăng 3% so với năm 2016. Theo báo cáo của Sở Tài chính các tỉnh, thành phố, giá bán lẻ tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung phổ biến 1,05 – 1,55 triệu đồng/tấn, tại các tỉnh miền Nam là 1,46 – 1,95 triệu đồng/tấn.Giá xi măng xuất khẩu tại Hòn Gai trong tháng 12 vào khoảng 48,5 – 51 USD/tấn, giá clinker xuất khẩu vào khoảng 29 – 30 USD/tấn FOB Cẩm Phả.

Tổng sản lượng clinker tiêu thụ năm 2017 gần 90 triệu tấn, tăng 16% so với năm 2016 và đạt 100% kế hoạch năm; trong đó tiêu thụ nội địa khoảng 62 triệu tấn, tăng 3% với năm 2016 và đạt 97% kế hoạch năm; xuất khẩu sản phẩm xi măng và clinker khoảng 18,0 triệu tấn, tăng 20% so với năm 2016, đạt 120% kế hoạch năm.

Nguyễn Quang Cung, Phó chủ tịch Hiệp hội vật liệu xây dựng Việt Nam, cho biết xuất khẩu xi măng trong nước tăng mạnh trong quý I năm 2018 do các nhà máy xi măng Trung Quốc đóng cửa do ô nhiễm và thiếu điện. Sản lượng xi măng trong nước tăng 18% so với cùng kỳ năm trước và xuất khẩu tăng 68%.

Ông Cung nói rằng chính phủ Trung Quốc đã ra lệnh đóng cửa một loạt các nhà máy xi măng từ ngày 15/11/2017 đến 15/3/2018 do lo ngại về môi trường và thiếu điện trong mùa đông.Những tình huống này đã khiến Trung Quốc từ nước xuất khẩu clinker toàn cầu vào năm 2016, trở thành nhà nhập khẩu xi măng vào cuối năm 2017. Nó chủ yếu nhập khẩu clinker từ Việt Nam, với khối lượng 1,5 triệu tấn / tháng. Xuất khẩu clinker của Việt Nam ‘tăng vọt’ trong năm 2017 do điều này.

Hiệp hội dự kiến Việt nam sẽ xuất khẩu 15 triệu tấn clinker trong năm 2017 nhưng lại xuất khẩu gần 21 triệu tấn. Nó cũng dự đoán rằng việc đóng cửa nhà máy ở Trung Quốc sẽ tăng lên vào năm 2018.

Như vậy nhìn tổng thể bức tranh xi măng Việt nam na ná xi măng tàu. Theo kế hoạch đến 2020, cung sẽ bằng 150% cầu . Nếu như ko có van xả xuất khẩu thì ngành xi măng sẽ kéo nhau xuống hố. Nước ta thường xuất cho Bangladesh và Phillippin, thế nhưng trước 2017, chúng ta bị cạnh tranh ghê gớm về giá nên giá xuất khẩu cũng có sự sụt giảm liên tiếp. Năm 2014, giá xuất khẩu xi măng là trên dưới 55 USD/tấn, FOB clinker dao động 38 - 40 USD/tấn. Trong năm 2015 và 2016, giá xuất khẩu tiếp tục giảm. Giá xuất khẩu FOB clinker 2017 giảm 20 - 25% so với năm 2014, dao động ở mức 30 USD/tấn. Nguyên nhân của sự giảm sút cả về số lượng và giá cả này là do sự cạnh tranh của tàu khựa, Ấn Độ và một số nước khác.

Chỉ sau khi tàu khựa chuyển từ vị trí xuất khẩu sang nhập khẩu, áp lực lên ngành xi măng chúng ta mới được nhẹ bớt. Thế nhưng nguy cơ cũng nằm ở chính khâu xi măng xuất khẩu.

Nhờ có xi măng xuất khẩu, ngành xi măng chúng ta vẫn chịu được tình trạng năng lực sản xuất cao hơn 25-30% nhu cầu, đến năm 2020 sẽ cao hơn 50% so với nhu cầu. Nếu như bên tàu hắt hơi sổ mũi ko nhập khẩu nữa thì ngành xi măng chúng ta ốm nặng.

Vậy mùa xuân tươi sáng này sẽ kéo dài tới khi nào? Tập Cận Bình muốn kỉ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản Trung quốc thật hoành tráng. Và Ngân hàng TW tàu sẽ làm đủ mọi cách để nền kinh tế duy trì đà tăng trưởng, thể hiện qua 2 lần liên tiếp giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc vừa rồi. Bơm tiền vào là có thành tích, là có sốt BĐS. Người dân tàu tranh nhau xếp hàng chỉ để được tham gia quay sổ số mua nhà, điều đó cho thấy đà xây dựng bên tàu chưa dứt. Thậm chí khi TW cấm bán nhà thương mại, các cty BĐS xoay sang cho thuê nhà 10 năm với số tiền chống 1 lần = 90-95% giá nhà. Khi TW cấm người đã có nhà mua thêm, 2 vợ chồng sẵn lòng li dị để 1 người có thể đi xếp hàng mua nhà nữa. Vậy là chính sách lại tòi ra thêm 1 câu : ai li dị chưa đủ 5 năm thì chưa được mua nhà . Quả thực là “ trên có chính sách, dưới có đối sách”.

BĐS bên tàu còn sôi sục, các nhà máy xi măng còn phải đóng cửa tiếp thì ngành xi măng chúng ta vẫn còn ấm chỗ, ít nhất trong vòng 1 năm nữa. Cho nên chúng em chọn tiêu đề câu chuyện cuối tuần này là như vậy

Chúng ta tiếp tục với 1 topic nữa bị con trâu trắng coi là rác rưởi của diễn đàn và xúi thằng DHA xoá đi

Câu chuyện cuối tuần 15 ( cũ)

Ngành vận tải biển – năm 2018 đầy thách thức.

Năm 2017 , chỉ số baltic đã có sự tăng trưởng đầy ngoạn mục. Nó tăng từ 260 điểm vào tháng 2 lên tới 1550 điểm cuối năm, tức tăng 6 lần. Vậy ngành vận tải biển lên hương? Câu chuyện ko hề đơn giản như thế.

Trong khi chỉ số Baltic tăng gấp 6 lần thì giá cước thuê tàu tăng ko tương xứng. Ví dụ ngày 21/4/2017 Chỉ số Freight Baltic giảm 139 điểm, tương đương 6.53% xuống còn 1,991 điểm, mức thấp nhất trong hơn một tháng. Thu nhập bình quân hàng ngày của tàu Capesize giảm 864 đô la Mỹ xuống còn 14.660 đô la Mỹ. Công suất bình thường của loại tàu này là 150.000 tấn.

Chỉ số Baltic Panamax giảm 59 điểm, tương đương 3.66% xuống còn 1.553 điểm. Lợi nhuận trung bình hàng ngày giảm 468 đô la Mỹ xuống 12,448 đô la Mỹ. Loại tàu thường mang từ 6 đến 70.000 tấn.

Đến ngày 37/3/2018 Chỉ số vận tải Baltic giảm 6 điểm, tương đương 0.5% xuống 1,191 điểm. Lợi nhuận hàng ngày trung bình tăng từ 1 đô la Mỹ lên 9,305 đô la Mỹ. Công suất bình thường của loại tàu này là 150.000 tấn.

Chỉ số Baltic Panamax giảm 23 điểm, tương đương 1.46% xuống còn 1.552 điểm, mức thấp nhất trong 3 tuần. Lợi nhuận hàng ngày trung bình giảm 185 USD xuống còn 12.471 USD. Loại tàu thường mang từ 6 đến 70.000 tấn.

Vì sao lại tréo nghoe như vậy. Vấn đề là do cơ cấu của chỉ số Baltic gồm nhiều loại tàu, và trọng số của loại tàu VLCC chở dầu khổng lồ có mức khá cao. Khi giá thuê VLCC tăng thì kéo chỉ số Baltic tăng, nhưng tàu loại nhỏ chả được hưởng mấy lợi. Tình trạng này đâu khác gì mấy mã VNM, GAS kéo cả VNI lên, nhưng midcap và penny vẫn đói rã họng.

Và đội tàu lớn với kích cỡ siêu trường siêu trọng chẳng những tranh mối hàng thì cũng thôi, chúng lại cậy ưu thế khủng của mình để đạp cước phí xuống. điều đó khiến đội tàu nhỏ đành bấm bụng thở dài. Hơn thế nữa đám tàu nhớn này ngày càng khủng hơn. Cách đây 5 năm, tàu container chở 13 ngàn TEU đã là nhớn, nay thì tàu 18 ngàn TEU vẫn là nhỏ. Bởi vì người ta đang đóng loại tàu chở được 23 ngàn container .

Vô hình chung đám tàu khủng đã đè cước phí vận chuyển của tàu nhỏ xuống, mặc kệ chỉ số Baltic tăng tới đâu. Nhưng tiên trách kỉ hậu trách nhân, cũng bởi vì tàu nhỏ nhiều quá nên cước phí ko sao tăng lên nổi. Trong topic này em ko nói về tàu chuyên chở container hay tàu chở dầu , nếu cần thì để topic khác nói. Em chỉ nói về tàu chở hàng khô

Và chúng ta bắt đầu xem xét đội tàu hàng khô

1.Phía Cung

Phần lớn các vấn đề trong thị trường hàng khô vào mỗi cuối năm có thể là do nguồn cung quá mức của tàu.

Vào cuối năm 2008, tập đoàn hàng khô có số lượng lớn nhất đạt tải trọng 332 triệu tấn, chiếm khoảng 52% tổng số đội tàu tại thời điểm đó. Tuy nhiên, tỷ lệ này giảm dần do hậu quả của việc cung cấp dư thừa tàu và suy thoái kinh tế toàn cầu. Dự báo về thời gian suy thoái kéo dài, tỷ lệ thuê tàu thấp và hạn chế tiếp cận tài chính cho nhiều chủ tàu yêu cầu lệnh đóng mới của các xưởng đóng tàu chậm lại. ây giờ chúng ta thấy mình đang ở trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác. Hiện nay, số lượng đặt tàu chở hàng khô chỉ chiếm dưới 7% về số lượng tàu và 9,2% về tổng công suất. Tỉ lệ này đã phá vỡ mức thấp kỷ lục 20 năm trước là 7,2% vào tháng 4 năm 2002.

Tổng các loại tàu đóng mới theo thời gian

Năm 2017 nhu cầu đang trên đà phát triển đã vượt xa nguồn cung cấp tàu, quả là điều hiếm hoi từ năm 2008. Điều này cho phép tái cân bằng lại nhu cầu và xu hướng này sẽ được tiếp tục vào năm 2018.

Mặc dù một số bài báo gần đây đã lưu ý rằng các đơn đặt tàu chở hàng khô đã tăng gấp bốn lần vào năm 2017 , nhưng năm 2016 chứng kiến ​​lượng đơn đặt hàng thấp nhất trong nhiều năm. Vì vậy, gấp 4 lần chỉ có tổng cộng 287 tàu, đó là một giọt nước trong xô, cho hơn 11.000 tàu hàng khô hiện đang chạy trên mặt nước. Và chúng ta xem xét các kích cỡ tàu chở hàng khô

a. Capesize

Hiện nay có 1.692 tàu lượng giãn nước lớn hơn 100.000 DWT (ở đây để đơn giản được phân loại là Capesize ) với năm chiếc khác để hạ thủy vào cuối năm 2017. Với 63 chiếc giao hàng vào năm 2018, điều này tăng tổng số đội tàu khoảng 3,7%. Nhưng nếu chúng ta tính đến sự sụt giảm và phá dỡ tàu dự kiến ​​thì con số này có thể sẽ chỉ còn tăng gần 1,5% tổng đội tàu. Một con số dễ quản lý nếu chúng ta có thể duy trì tăng trưởng thương mại khoảng 4% .

b. Panamax

Loại Panamax, đại diện cho các tàu có lượng giãn nước từ 65.000 đến 99.999 DWT, có tổng cộng 2.506 tàu trên mặt nước với 17 chiếc nữa được giao vào cuối năm 2017. Với 66 chiếc sẽ hạ thủy vào năm 2018, điều này làm tăng tổng số đội tàu khoảng 2,6%. Với dự kiến ​​giảm và phá dỡ, chúng ta sẽ thấy sự tăng trưởng ròng của đội tàu có thể dưới 1%.

c. Handymax

Lớp Handymax, đại diện cho các tàu có lượng giãn nước từ 40.000 DWT đến 64.999 DWT, có 3.547 tàu đang hoạt động với 21 tàu dự kiến ​​vào cuối năm 2017. Cùng với 93 chiếc được giao vào năm 2018 chiếm 2,6% tổng số đội tàu. Và một lần nữa, với sự sụt giảm và phá dỡ dự kiến làm tổng đội tàu sẽ chỉ tăng trưởng dưới 1%.

d. Handysize

Lớp Handysize, đại diện cho các tàu có lượng giãn nước từ 10.000 đến 39.000 DWT, có 3.363 tàu đang hoạt động và 18 tàu dự kiến ​​trước cuối năm 2017. Với 102 chiếc giao hàng vào năm 2018, điều này làm tăng tổng số đội 3%. Một lần nữa, với dự kiến ​​giảm và phá làm sắt vụn, chúng ta sẽ thấy tổng số đội tàu tăng trưởng chỉ khoảng 1-1,5%.

Mặc dù cho đến nay đặt hàng vào năm 2017 đang tăng, các đơn đặt hàng các tàu cỡ lớn đã tiếp tục giảm đi. Nhưng thứ tự giảm dần này không thể kéo dài mãi mãi. Thực tế là chủ sở hữu mà thấy tỷ lệ lợi nhuận cải thiện, có thể nhiều đơn đặt hàng sẽ được đặt. Cũng đừng quên rằng với việc gia tăng tỷ giá thuê bao sẽ tăng giá trị tài sản thay đổi số liệu về nợ / tài sản để cho nhiều chủ sở hữu có thể đẩy mạnh việc mua thêm tài sản.Hiện tại, tỷ lệ D / A trung bình của ngành đã cho phép tăng lên khi giá tài sản tăng lên đáng kể trong năm qua. Trên thực tế, giá trị trên sổ sách của mỗi loại Capesize, Panamax, Supramax và Handysize 5 năm đã tăng lần lượt 42%, 63%, 36% và 42% trong năm qua.

Nhưng người ta dự đoán rằng năm 2018 sẽ thấy một sự tăng lên của đơn đặt hàng có nghĩa là đơn hàng hiện tại có thể gần đáy hoặc thậm chí ở đáy của một chu kỳ. Một vài bài toán cho thấy rằng nếu các đơn đặt hàng năm 2018 sao chép mức trung bình trong sáu tháng qua, thì đến cuối năm 2018, số đơn tàu mới có thể đạt từ 9% đến 10% tính đến các khoản giao hàng dự kiến. Nếu đơn đặt hàng năm 2018 trùng với một số tháng đặt hàng đỉnh cao gần đây như tháng 5 hoặc tháng 9/2017, rất có thể chúng ta sẽ kết thúc năm 2018 với tăng trưởng khoảng 12% -13%.

2.Bên cầu

Như chúng ta có thể thấy từ phía cung, trên hết, chúng ta thực sự cần là tăng trưởng thương mại toàn cầu để duy trì ít nhất 2% hoặc cao hơn cho xu hướng tăng tiếp tục. Trong thập kỷ qua, chỉ trong năm 2009 và 2015 có mức tăng trưởng dưới 2%.

Cho đến nay, các dự báo đã đạt được một sự nhất trí công bằng khi đưa tổng nhu cầu hàng khô vào năm 2018 tăng trong dải từ 3,5% đến 4,5%. Điều này dự báo tốt cho nhu cầu tăng trưởng lớn hơn tăng trưởng ròng của đội tàu chở hàng khô và thậm chí cả tăng trưởng cả ngành. Vì vậy, đã có những người đang tìm kiếm chu kì bullish.

Nhu cầu hàng khô chủ yếu là quặng sắt, than, ngũ cốc

A.Quặng sắt

Hàng khô vận chuyển quan trọng nhất là quặng sắt với thị phần 29%. Quặng sắt thường được vận chuyển trên các tuyến đường dài với các tàu hàng rời lớn (capeize và lớn hơn). Phần lớn nhu cầu quặng sắt toàn cầu đến từ Trung Quốc, và các nhà xuất khẩu quặng sắt chính là Úc và Brazil. Triển vọng ngắn hạn đối với tăng trưởng nhu cầu vận chuyển là rất tích cực đối với quặng sắt như minh họa dưới đây.

Chìa khóa của triển vọng vận chuyển quặng sắt là sự gia tăng lượng cung lớn trong vài năm tới. Thậm chí tích cực hơn nữa là nguồn cung chính từ là Brazil. Phần lớn quặng sắt của thế giới kết thúc ở Trung Quốc và Brazil - Trung - Quốc là tuyến đường vận chuyển dài nhất mà chúng ta có thể tìm thấy. Do đó, nhu cầu vận chuyển theo tấn km có thể sẽ tăng đáng kể.

b.Than

Hàng hóa quan trọng tiếp theo cho vận chuyển hàng rời là than với 23% thị phần. Nhu cầu than có thể được tách ra thành nhu cầu cho việc tạo ra điện và sử dụng cho sản xuất thép. Đối với sản xuất thép, các công ty thường sử dụng than chất lượng cao hơn được gọi là than cốc.

Phần lớn nhu cầu hàng rời thường xoay quanh than đá và quặng sắt, với Trung Quốc là khách hàng chủ chốt. Vì vậy, chúng ta dành chút thời gian vào chủ đề đó.

Yếu tố chính ảnh hưởng đến thương mại trong năm 2015 và đến năm 2016 (dẫn đến tăng trưởng thêm nữa trong năm nay) là sự suy yếu nhập khẩu than của Trung Quốc, tổng cộng giảm 30% , dẫn đến sự sụt giảm của thương mại than theo đường biển toàn cầu gần 7% vào năm 2015 và 2% vào năm 2016. Đến năm 2017 tăng 1.5% nhờ sự phục hồi của ngành thép Mĩ dưới thời Trump.

Việc nhập khẩu than bay hơi của tàu khựa để sử dụng trong các nhà máy điện đã tăng 25% trong nửa đầu năm 2017. Nhưng sau đó việc làm chậm giải phóng tàu đã làm tăng thêm chi phí cho than nhập khẩu vì thời gian giải phóng hàng đã tăng gấp đôi lên đến 35 ngày vào nửa cuối năm 2017, dẫn đến việc các tàu xếp hàng dài nhiều km ở cảng.

Tăng chi phí than nhập khẩu sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh cho than nội địa của tàu. Điều này rất quan trọng đối với ngành than đá trước đây của tàu khựa vừa chỉ trở lại với lợi nhuận trong năm qua.

Tuy nhiên, vào năm 2015-16, nhập khẩu than hơi Ấn Độ cũng giảm trung bình 9% / năm Đến 2017 lại sụt giảm 8% trong khi các báo cáo cho thấy nhập khẩu của các nhà máy điện đốt than Ấn Độ đã giảm 19%.

Ngành bất động sản của tàu khựa chiếm khoảng 30% nhu cầu người dùng cuối trong nước và cơ sở hạ tầng chiếm khoảng 40%. Hai lĩnh vực này ở tàu chiếm hơn 35% nhu cầu thép toàn cầu của người dùng cuối cùng.

c.Những sản phẩm nông nghiệp

Nhóm hàng cuối cùng của hàng hoá lớn mà chúng ta bàn luận là các sản phẩm nông nghiệp. Các loại hạt là một thành phần quan trọng trong vận chuyển hàng rời khô. Đậu nành, đường, lúa mì, ngô, và nhiều thứ nữa thường được vận chuyển trên các tàu hàng rời khô. Các loại ngũ cốc đóng góp khoảng 10% nhu cầu vận chuyển hàng rời toàn cầu, phân bón khoảng 3%, đường khoảng 1% và các sản phẩm nông nghiệp khác khoảng 3%. Tổng cộng nhóm hàng này chiếm khoảng 17% nhu cầu vận chuyển hàng rời.

Một khía cạnh thú vị của thương mại nông nghiệp là phần lớn sự gia tăng sản xuất toàn cầu có thể được tìm thấy ở Nam Mỹ và Bắc Mỹ. Hầu hết nhu cầu tăng trưởng có thể được xác định ở Châu Á. Một lần nữa, như đã đề cập trước đây, đây là các ngành hàng vận chuyển hàng rời đường dài rất dài đang cho thấy tốc độ tăng trưởng lành mạnh.

Năm 2000, đội tàu hàng rời toàn cầu đã có lượng giãn nước ít hơn 100 triệu tấn MDWT. Con số này tăng lên khoảng 800 MDWT vào cuối năm 2017. Tăng gấp 8 lần trong 17 năm.

Điều đáng chú ý là năm 2017 vẫn cho thấy sự tăng trưởng của đội tàu là 6%, nhưng BDI đã được cải thiện đều đặn trong năm nay. Mặc dù sự tăng trưởng đội tàu, thị trường vẫn đang cần thắt chặt. Trong năm 2018, dự kiến ​​tăng trưởng đội tàu sẽ là 3%, và năm 2019 là 2%.

Đơn đặt hàng đóng tàu mới gần đây đã quay trở lại một chút như là phản ánh triển vọng cho vận chuyển lô hàng số lượng lớn đang nhanh chóng cải thiện. Vì vậy, đặt hàng đã được vừa phải tương đối so với quy mô lớn của đội vận chuyển hàng rời toàn cầu, nhưng đây là điều gì đó cần theo dõi chặt chẽ. Tin vui là hầu hết các đơn đặt hàng đóng tàu mới gần đây đều có ngày giao hàng cho nửa sau năm 2019 hoặc muộn hơn. Sự tăng trưởng đội tàu nhỏ vào năm 2018 đã được thiết lập, như là hầu hết sau nửa đầu năm 2019. Như vậy ngành tàu chở hàng khô có thời gian hơn 1 năm nữa để lấy lại hơi.

Một yếu tố khác sẽ làm giảm sự phát triển đội tàu là việc loại bỏ các tàu cũ. Một phần quan trọng của đội tàu hàng rời toàn cầu là những tàu trên 20 năm tuổi . Cũng may giá thép phế liệu đã tăng trong năm 2017, điều này sẽ khuyến khích việc phá dỡ tàu cũ thêm. Một phần lớn các tàu capesize cũ là các tàu chở quặng lớn (“VLOC”), được thiết kế từ các tàu chở dầu thân vỏ đơn chuyển đổi vào những năm 1990.

Trên thực tế, đã có hơn 40 tàu VLOC chờ phá dỡ.

Ngoài ra còn có hai quy định mới sẽ khuyến khích việc tiếp tục tiến lên phía trước. Việc xử lý nước dằn và các quy tắc về nồng độ sulfur. Cả hai bộ quy định mới này sẽ làm cho các tàu cũ trở nên kém hiệu quả hơn các tàu hiện đại và sẽ đòi hỏi nhiều khoản đầu tư vào thiết bị mới. Những khoản đầu tư này sẽ không thể biện minh cho nhiều tàu kích cỡ lớn, vì vậy sẽ có thêm nhiều tàu bị bỏ đi.

Nước dằn là một thành phần thiết yếu của sự ổn định của con tàu. Nước dằn được bơm vào để duy trì điều kiện hoạt động an toàn trong suốt chuyến đi. Điều quan trọng đối với các hoạt động vận chuyển hiện đại thì nó an toàn và hiệu quả, nhưng nó có thể gây ra các vấn đề về môi trường, kinh tế và sức khoẻ nghiêm trọng đối với vô số các loài sinh vật biển mang trong nước dằn tàu.

Theo IMO, Tổ chức Hàng hải quốc tế ( IMO), cơ quan quản lý quốc tế về vận chuyển hàng hải của Hoa Kỳ đã tuyên bố quyết định thực hiện nồng độ lưu huỳnh toàn cầu là 0,50% m / m (khối lượng / khối lượng) vào năm 2020, sửa lại mức giới hạn 3,5% hiện tại. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khoảng 70.000 tàu trên tổng số 110 ngàn tàu. Sẽ có đợt thay máu mới trong ngành vận tải biển.

Vinashine sẽ sống lại từ 2019 ( nếu nó còn đóng tàu cỡ nhớn) . Còn ngân hàng nào cho Vinashine vay tiền sẽ khởi sắc từ 2022 . Khi đó mấy con SHB, BID, CTG, VCB mới thực sự tăng trưởng trên nền tảng vững chắc hơn, khi hơn 150 ngàn nợ xấu có cơ may được bóc dần khỏi nội bảng kế toán. Còn từ giờ đến đó, đám ngân hàng trên vẫn chỉ tăng đểu phục vụ cho mục đích nào đó của nhà cái. Dù sao với lượng cổ phiếu cô đặc 95-99%, nhà cái rất dễ đẩy giá đám ngân hàng này để đánh lừa nhỏ lẻ.

Chúng ta thấy đội tàu tải trọng nhớn toàn cầu sẽ chỉ tăng trưởng 3% vào năm 2018 và 2% vào năm 2019. Trong khi các đơn đặt hàng mới vẫn có thể được bổ sung vào nửa sau năm 2019, bây giờ có thể nói rằng đội tàu sẽ phát triển rất chậm trong ít nhất 30 tháng tới. Trong thực tế, các sự cố chậm trễ, không giao hàng đúng hạn, phá hủy các tàu cũ sẽ dẫn đến sự phát triển hiệu quả của đội tàu. Các chiên za tin rằng tăng trưởng đội tàu chỉ có thể khoảng 1% mỗi năm trong 30 tháng tới. Khi chúng ta kết hợp sự tăng trưởng của đội tàu với sự triển vọng tốt về nhu cầu vận chuyển hàng rời, nó rút ra một bức tranh rõ nét về sự cải thiện đáng kể của thị trường trong tương lai.

Ví dụ, nếu có 19 lô hàng hóa và 20 tàu thì có thể gây ra một thị trường khủng khiếp, nhưng với 20 lô hàng hóa và 19 tàu làm cho một tình cảnh thật tuyệt vời. Điều này là do cước vận chuyển tàu thường là một phần rất nhỏ trong chi phí của một hàng hoá, do đó, nhiều người thuê tàu không hoảng sợ nếu chi phí vận chuyển tăng lên.

3.Rủi ro đối với tàu ngành hàng khô

Chuyên gia nêu bật các rủi ro chính có thể làm trật bánh thị trường vận chuyển hàng rời.

Thứ nhất là phụ thuộc vào tàu khựa, và ở mức độ thấp hơn ở Braxin. Một phần rất lớn nhu cầu vận chuyển hàng rời đến từ tàu khựa. Nếu nền kinh tế của họ đổ vỡ hoặc chính phủ ban hành quy định bất lợi, điều này sẽ làm hỏng thị trường hàng loạt. Ví dụ về các quy định không thuận lợi bao gồm khuyến khích sản xuất than / quặng sắt trong nước (mặc dù chất lượng thấp hơn và ô nhiễm không khí), sự chậm trễ của đầu tư cơ sở hạ tầng, hoặc bắt đầu các cuộc chiến thương mại. Tuy nhiên, quy định thêm của tàu cũng là một ‘rủi ro’ đối với xu hướng tăng. Nếu tàu quyết định khuyến khích nhập khẩu chất lượng cao hơn, khởi xướng các dự án xây dựng khổng lồ, hoặc thực hiện các biện pháp hỗ trợ khác, nhu cầu vận chuyển có thể cải thiện từ đây.

Brazil là một nước xuất khẩu đang phát triển nhanh chóng trong nhiều mặt hàng chủ yếu như quặng sắt, bô xít và đậu nành. Đây là một động lực chính để vận chuyển hàng rời, vì khoảng cách tới khách hàng chính- tàu - là xa. Tình trạng bất ổn ở Braxin làm hạn chế tăng trưởng xuất khẩu này có thể là một sự kiện thiên nga đen tiềm năng.

Rủi ro chính thứ hai đáng để thảo luận là đặt hàng quá mức các tàu mới.Trong vài tháng gần đây, lệnh đặt tàu chở hàng khô đã bốc khói. Điều tích cực là gần như tất cả các đơn đặt hàng đã được đặt hàng vào cuối năm 2019, vì vậy thị trường nên rõ ràng trong vài năm tới. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán có thể được chuyển tiếp tìm kiếm. Đây chắc chắn là một khía cạnh mà chúng em dự định tiếp tục theo dõi chặt chẽ.

Rủi ro thứ ba chúng em muốn thảo luận là mùa vụ của thị trường. Từ tháng 12 trở đi cho đến cuối quý I, thị trường hàng rời thường yếu hơn. Mặc dù đây là một sự kiện hàng năm, thị trường vẫn có thể giao dịch cổ phiếu số lượng lớn xuống một chút, bởi vì chỉ số BDI sụt giảm. Một yếu tố nữa trong năm nay là mùa vụ có thể tồi tệ hơn do những hạn chế của tàu khựa đối với sản xuất thép . Sương mù làm không khí xấu nhất trong thời gian mùa đông và tàu khựa cố gắng tránh sự bùng phát sương khói khổng lồ trong những năm gần đây bằng cách tạm thời hạn chế sản xuất công nghiệp nặng của họ. Nhưng không cần quá lo lắng về hiệu ứng này: Nó sẽ là tạm thời; nó cũng nên khuyến khích nhập khẩu chất lượng cao thay vì chất lượng thấp hơn ở địa phương và quặng; và ngay cả khi vận chuyển hàng rời tạm thời bị ảnh hưởng, nó cũng sẽ dẫn đến sự sụt giảm lượng hàng tồn kho lớn và sử dụng rất cao khi những hạn chế được nâng lại.

Chúng ta lại tiếp tục với các topic bị con trâu trắng xúi thằng DHA xoá đi

Câu chuyện cuối tuần 42 ( cũ)

PBOC hạ mức tỉ lệ dự trữ bắt buộc và tác động của nó

Hôm 4/1, Ngân hàng trung ương PBOC thông báo sẽ hạ tỉ lệ dữ trữ bắt buộc RRR thêm 100 điểm, bơm 1500 tỏi CNY vào nền kinh tế. Tin này lập tức được các sàn chứng khoán Hỗ Thâm lẫn Hằng Sinh nhiệt liệt tăng lên để hưởng ứng. Vậy tại sao PBOC phải hạ RRR làm ảnh hưởng tới sự an toàn của hệ thống ngân hàng và tác động của điều này là như thế nào?

Gốc rễ của nó chúng ta phải quay trở lại 6 tháng trước đây. Vào tháng 6/2018, nước mĩ có 2 chiêu tác động tới trung quốc : FED nâng lãi suất thêm 25 điểm và mr trump áp thuế lên hàng trung quốc nhập khẩu vào mĩ, tức đẩy mạnh chiến tranh thương mại vì ko hài lòng với những nhượng bộ đầy tính hình thức, có cũng như ko của trung quốc trong vòng đàm phán cuối tháng 5/2018

Những nhượng bộ bề ngoài như mở cửa thị trường tài chính và hàng hóa, tăng cường mua thêm hàng mĩ của trung quốc thực chất ko mang lại tác động mới. Ví dụ như mở cửa thị trường tài chính, cho phép thành lập chi nhánh ngân hàng 100% vốn ngoại. Thế nhưng từ tháng 3/2018, PBOC đã có văn bản yêu cầu chi nhánh NH nước ngoài phải có vốn pháp định 15 tỏi trump. Với yêu cầu như thế, Việt nam ta có chuyển cả 4 NH nhà nước sang đó cũng ko đủ để thành lập 1 chí nhánh.Còn tăng nhập khẩu từ mĩ thì vấn đề là mua hàng gì? Nếu mua được thì người trung quốc đã mua rồi. Muốn mua thêm sẽ phải hạ thuế nhập khẩu với hàng mĩ. Có điều theo WTO, hạ thuế cho mĩ thì phải hạ cho các thành viên khác nữa. Tức là nước mĩ dọn cỗ cho thiên hạ chứ chả được mấy miếng.

Đứng trước tác động kép của mĩ, trung quốc có thể làm mấy điều : nâng lãi suất ngân hàng theo, phá giá đồng tiền, bán dự trữ ngoại tệ và bơm vốn vào thị trường.

Ngày đó rất nhiều cao thủ lên media dự báo trung quốc sẽ phá giá đồng tiền và dự báo tác động của nó tới Việt nam. Thật nực cười cho cái danh cao thủ. Bởi có 1 nguyên nhân rất đơn giản : đa phần vốn ngoại trị giá 1800 tỏi trump đầu tư vào trung quốc được chốt giá ở mức 6.7CNY/ 1 trump . Nếu như phá giá thành 1 trump đổi được nhiều hơn 7 CNY sẽ dẫn tới làn sóng rút vốn ngoại

Hãy nhớ lại giai đoạn 2015-2016. Thời kì đó cũng có tập đoàn cá mập dẫn đầu là Soros tấn công đạp xuống đồng nhân dân tệ. Cuộc tấn công đó đã khiến khối ngoại bán tháo tài sản tại trung quóc để rút vốn. Trung quốc đã ra sức chống đỡ lại cuộc tấn công đó và cuối cùng đã thắng, đàn cá mập chịu từ bỏ cuộc chiến với khoản lỗ 35 tỏi trump. Thế nhưng PBOC cũng là thắng thảm, khoản dự trữ ngoại tệ giảm từ 4000 tỏi xuống 3000 tỏi trump, còn chỉ số thượng hải CSI nhảy vực từ 5000 về 3000, hơn 80 triệu chứng sĩ trung quốc ko biết tết 2016 là cái gì, ăn tết ở đâu.

Lúc FED nâng lãi suất tháng 6/2018 nếu như PBOC để tỉ giá thủng mức 7CNY/ 1 trump thì rất có thể lại tái hiện dòng rút vốn ngoại mạnh mẽ nữa làm chao đảo nền kinh tế. Do đó vào tháng 6/2018, PBOC ko thể phá giá đồng nhân tệ. Và trong năm 2019 cũng ko thể phá giá được, bởi ngưỡng 7 CNY/1 trump đã là giới hạn cuối cùng, nói cho đúng hơn là trong năm 2019, PBOC sẽ cố gắng đưa tỉ giá về mức quanh 6.7 CNY/1 trump.

Ko phá giá đồng nội tệ được , thế nhưng PBOC cũng ko dám nâng lãi suất theo FED. Bởi vì vào thời điểm đó, có rất nhiều tín hiệu FED sẽ còn nâng lãi suất lên 6 lần nữa. Nếu PBOC cứ nâng lãi suất lên theo FED, hậu quả còn khủng khiếp hơn cả phá giá đồng nhân dân tệ.

Bởi vì PBOC mà nâng lãi suất, vấn đề ko nằm ở trung ương mà nằm ở các tỉnh. Trung ương thì còn khối dự trữ ngoại tệ 3000 tỏi trump để chống đỡ, thế nhưng các địa phương thì chả còn chỗ dựa nào ngoài đất. Nợ xấu của các tỉnh đã quá nhớn, cứ nhìn danh sách các thành phố ma, khu phố ma, những cây cầu cao to hùng vĩ nhưng ít người qua lại là có thể nhận ra điều đó. Các tỉnh đang oằn lưng chống đỡ với việc trả lãi cho cục nợ xấu từ thời lãnh đạo trước, nay nâng lãi suất chả khác nào con ruồi đậu lên lưng lạc đà làm nó ngã quị.

Để chống đỡ thì các tỉnh phải bán thêm nhiều đất, bơm thêm quả bong bóng bất động sản khiến nó có thể nổ tung bất kì lúc nào. Nếu ko bán đất, các tỉnh ko moi thêm tiền để trả lãi ngân hàng địa phương làm tăng nợ xấu ngân hàng. Tệ hơn nữa, có thể tỉnh chả có tiền để trả nợ nữa, dù sao đó là món nợ từ đời trước để lại. Nên nhớ lãnh đạo tỉnh ở trung quốc do trung ương điều động từ ngoài tỉnh, ko phải cán bộ địa phương cất nhắc lên. Do đó ko phải lúc nào họ cũng có trách nhiệm với khoản nợ từ nhiệm kì cũ.

Vậy là tỉnh có 2 sự lựa chọn : để nổ bong bóng BĐS hay để bục vỡ hệ thống ngân hàng. Lựa chọn nào cũng làm ngành ngân hàng toàn quốc lâm nạn theo.Do sợ ảnh hưởng tới địa phương, PBOC ko thể nâng lãi suất theo FED, thậm chí trong năm 2019 này còn phải hạ lãi suất, rất có thể là vào tháng 8/2019, chuyện này em xin nói sau.

Cửa tiếp theo là bán dự trữ ngoại tệ. Nếu bán ngoại tệ có 2 nguy cơ : đám kền kền tài chính quốc tế sẵn sàng quay lại tấn công đồng nhân dân tệ một lần nữa, có khi Soros lại tái xuất giang hồ. Bởi ông ta tuy đã rửa tay chậu vàng, nhưng ko ngừng tấn công từ mr Putin tới thủ tướng Hungary Victor Orban. Chứng tỏ dã tâm của Soros vẫn chưa cạn. Nguy cơ thứ 2 lớn hơn : bị mĩ buộc tội thao túng tiền tệ, làm mất lòng tin của giới tài chính quốc tế vào đồng nhân dân tệ do đó làm hỏng chiến lược nâng cấp đồng CNY có vai trò ngang với đồng bạc xanh hay đồng Euro. Vậy là PBOC chỉ còn cửa bơm tiền ra.

Bản chất của việc bơm tiền ra là để giữ giá tài sản nhằm thu hút FDI. Hai loại tài sản dễ thấy nhất là bất động sản và chứng khoán. Bởi việc bơm tiền ra thì mới có dòng máu mới để hỗ trợ giá cho BĐS và các mã cổ phiếu.

Do đó PBOC ngày đó đã sử dụng công cụ cơ sở cho vay trung hạn MLF để chống đỡ việc FED nâng lãi suất. Tháng 1 này có 1356 tỏi CNY của MLF hết hạn, do đó PBOC phải bơm tiền tiếp hỗ trợ. Kết quả hôm 4/1, PBOC đã hạ dự trữ bắt buộc RRR để tiếp thêm 1500 tỏi CNY thay thế cho MLF kia. Chúng em dự kiến năm nay PBOC có 2 lần hạ RRR, 1 lần dùng MLF, 1 lần dùng cơ sở cho vay ngắn hạn MLS , nay đã dùng RRR 1 lần. Thế nhưng có người cho là PBOC sẽ giảm RRR 3 lần trong năm 2019, chúng ta hãy cùng chờ xem.

Việc giảm RRR này dẫn tới điều gì?

Việc cắt giảm RRR trước hết là một quy định định hướng. Nó nhằm để hỗ trợ thêm cho sự phát triển của nền kinh tế thực, tối ưu hóa cấu trúc thanh khoản và giảm chi phí tài chính. Đây là mục đích rõ ràng của thông báo cắt giảm RRR của ngân hàng trung ương PBOC. Tác động của nó đến từ 2 khía cạnh : tác động tâm lí và ảnh hưởng thực sự.

Đối với 2 sàn Hỗ Thâm ( Thượng hải Thẩm quyến) và sàn Hằng Sinh, nó có ảnh hưởng kích thích thị trường chứng khoán theo kiểu kích thích tích cực gián tiếp, và không nhất thiết dẫn đến sự gia tăng mạnh trong thị trường chứng khoán. Loại ảnh hưởng này chủ yếu là cảm xúc, có thể làm giảm căng thẳng thị trường, ngăn ngừa rủi ro hệ thống lớn và ngăn thị trường chứng khoán biến động. Ngay cả khi một phần tiền chảy vào thị trường chứng khoán, nó sẽ không đóng vai trò lớn đối với cổ phiếu Ađang có giá trị thị trường là 400.000 tỏi CNY. Bởi vì nếu nói rằng dùng 1500 tỏi để tạo sóng cho sàn có giá trị > 400 ngàn tỏi, nghe nó có vẻ hơi phóng đại

Việc cắt giảm RRR được nhắm mục tiêu có thể có tác động lớn hơn đến nền kinh tế thực, vì việc cắt giảm RRR được nhắm mục tiêu chủ yếu là để giảm bớt vấn đề khó khăn tài chính nhỏ và vi mô và tài chính tốn kém. Hầu hết hàng nghìn tỷ đồng sẽ không chảy vào thị trường chứng khoán. Trước hết, việc cắt RRR này là để thay thế MLF đã hết hạn vào quí 1/2019 và thay thế thanh khoản MLF tương đối ngắn hạn bằng RRR dài hạn. Điều này sẽ giúp hệ thống ngân hàng thương mại lập kế hoạch tín dụng dài hạn cho cả năm. Thời gian vốn để gửi dự trữ sẽ phù hợp hơn với kế hoạch tín dụng dài hạn và cấu trúc thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại sẽ được tối ưu hóa.

Tác động với thị trường bất động sản còn vi diệu hơn. Trước hết nó cũng đánh vào tâm lí khiến các chủ dự án yên tâm hơn. Có điều trung ương vừa đưa ra chủ trương BĐS phải giảm giá bán nhà, nên nói chủ dự án dùng tin RRR này để nâng giá bán là ko thực tế. Bản thân qui định của RRR cũng nhằm mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thế nhưng bằng cách này hay cách khác, một phần dòng tiền đó vẫn chảy vào chứng khoán và bất động sản, nhất là trút vào bất động sản. Đi sâu vào mảng tác động tới BĐS này có lẽ câu chuyện cuối tuần khác.

PBOC giảm RRR ảnh hưởng thế nào tới 3 sàn VNI?

Trước sau gì thì dòng tiền giảm RRR này cũng chảy vào BĐS. Trong 9 lần hạ RRR trước, dù có nói mục tiêu là hỗ trợ BĐS hay ko thì cuối cùng vẫn có tiền chảy vào đó, hỗ trợ cho mảng BĐS. Điều đó thể hiện qua giá nhà tăng, hay chí ít là dừng giảm. Nhưng dù giá nhà tăng hay giảm thì điều quan trọng nhất là khói lượng thanh khoản giao dịch tăng lên, và tác động của lần hạ RRR này tới 3 sàn VNI cũng xuất phát từ đó.

Khối lượng giao dịch tăng sẽ khiến nhu cầu xây dựng tăng lên, với các chủ dự án đó chỉ là ăn dày hay mỏng mà thôi. Thế nhưng có hàng loạt ngành ăn theo được hưởng lợi ké : sắt thép, xi măng, đồ nhựa và vật liệu xây dựng, hàng gia dụng ( tủ lạnh, điều hòa, bình nóng lạnh, nồi cơm điện, lò vi sóng, TV và phần nào là xe du lịch …… ). Và tác động tới 3 sàn VNI cũng đến từ điều đó.

Xưa nay các mặt hàng trung quốc vốn chèn ép hàng nội ở nước ta. Nếu bọn họ ăn nên làm ra thì còn đỡ, nhưng 1 khi bọn họ lỗ, khối lượng xuất khẩu hàng giá rẻ sang nước ta tăng vọt sẽ khiến các ngành nội địa tương ứng hắt hơi sổ mũi theo. Do đó việc giảm RRR này chính là đưa than sưởi ấm giữa mùa đông. Nó sẽ giúp cải thiện mặt bằng giá cả hàng loạt mặt hàng : xi măng, sắt thép, nhựa đường ….

Khả năng ngành xi măng chúng ta sẽ được hưởng lợi lớn nhất. Bởi xi măng vốn là ngành ô nhiễm, là ngành hàng bị chính sách môi trường của trung quốc quản chặt nhất nên sẽ chuyển từ xuất khẩu sang nhập khẩu. Tức ngành xi măng của chúng ta đang từ lo trung quốc cạnh tranh thì nay có thêm thị trường xuát khẩu. Mỗi tội các mã xi măng của chúng ta đang yếu như sên, nhưng để ý kĩ thì vẫn có thể nhận ra mã nào sẽ tăng vọt trong thời gian tới. Thi thoảng chúng em sẽ post vài nhận định nội bộ về ngành này cho xôm tụ * thả thính nè*

Ngành tiếp theo là sắt thép, các bác chỉ cần nhìn giá sắt bên trung quốc là hình dung ra. Muộn nhất sau tết âm lịch là khối thương nhân sẽ quay lại mua thép dự trữ mùa xây dựng bắt đàu từ tháng 4 hàng năm. Bởi vì hiện 90% thương nhân do năm ngoái trữ hàng thép mùa đông thua lỗ nên lúc này bọn họ chưa mua hàng, nhưng nghỉ kinh doanh thì ko. Khi bọn họ quay lại mua hàng thì các mã tôn, sắt thép trên 3 sàn VNI hưởng lợi.

Có điều hiện HPG đang có cuộc đấu dữ dội. Phe chim nhợn định ép quĩ PENM 3 phải bán rẻ 20-60 triệu cổ HPG. Còn PENM 3 do chỉ đóng quĩ vào năm 2021 nên bọn họ chưa lâm vào cảnh bị ép bán rẻ. Cuộc đấu ngàn tỏi này sẽ còn nhiều màn kịch hay. Theo em tháng 6/2019 sẽ thành lập PENM5 và PENM 5 chắc chắn sẽ mua vào HPG. Tức thời gian tung hoành của chim nhợn HPG chỉ còn tới tháng 6.

Theo em lúc này trích 5% tài khoản mua HPG, nếu giá giảm về 27 thì mua thêm 5% nữa. Còn khi HPG tăng thì các bác cứ mua theo TA FA. Khi đó thánh Hermes chắc chắn sẽ có chỉ dẫn cho các bác.

Lại thêm 1 topic bị con trâu trắng coi là rác rưởi của diễn đàn và xúi thằng DHA xoá

Câu chuyện cuối tuần 48 (cũ)

Chém ró về đường cong lãi suất

Vừa qua thị trường thế giới chứng kiến hiện tượng đường cong lãi suất đảo ngược. Đó là vì lãi suất 3 tháng 3M cao hơn lợi suất trái phiếu 10 năm 10Y. Vậy là có 1 số cao thủ nhẩy ra đăng đàn rằng sắp sửa khủng hoảng tới nơi rồi. Dạng phát biểu như vậy nói nhẹ thì là có hơi khiên cưỡng, nói trung là trình còi, nói nặng rứt khoát là động cơ ko trong sáng.

Vì sao lại đưa ra kết luận như vậy? Đó là kết luận rút ra từ quan điểm thiên thời , địa lợi, nhân hòa.

  1. Về mặt địa lợi :

https://www.viportal.co/yield-curve-inversion-suggests-new-all-time-highs-for-stocks-seeking-alpha/

a.Thống kê lịch sử : địa lợi ở đây là xác suất xảy ra suy thoái. Tuy chúng ta không có dữ liệu thống kê 700 năm, nhưng 70 năm thì vẫn có. Đại khái từ những năm 50 của thế kỉ trước.

Hình 1 :Tổng quan các lần xảy ra suy thoái

Hình 2 : Ngày tháng đường cong lãi suất đảo ngược và suy thoái

Trước hết, sử dụng dữ liệu giá hàng ngày, đường cong lợi suất 10Y-3M đã tạo ra âm tính giả vào cuối những năm 1950. Thứ hai, như có thể thấy trong Hình 2 ở trên, tín hiệu đảo ngược đường cong lợi suất 10Y-3M tạo ra dương tính giả vào năm 1966, 1998 và đầu năm 2006. Còn trường hợp suy thoái năm 1960 thì đường cong lãi suất thậm chí còn không thèm đảo ngược. Nếu tính đến bốn thất bại này, hồ sơ theo dõi tín hiệu đảo ngược của đường cong lợi suất 10y-3M sẽ chỉ là 4 trên 8. Tức đúng 2 thì sai 1, vậy chỉ cần dấn thêm 1 bước nữa là thành đúng 1 sai 1 tức tỉ lệ 50% - tỉ lệ tung đồng xu. Đã là tung đồng xu để xác định khả năng suy thoái thì cần gì đến ý kiến của các chiên za nữa, rách việc.

b. Giãn cách thời gian đảo ngược tới suy thoái

Nhìn vào hình 1 hay bảng 2 chúng ta đều thấy giãn cách thời gian từ khi đường cong lãi suất đảo ngược đến lúc xảy ra suy thoái. Lúc ngắn nhất là suy thoái xuất hiện 6 tháng chậm hơn đường cong. Còn trường hợp dài nhất là suy thoái muộn hơn tận những 48 tháng. 4 năm ư, voi cũng không chửa lâu như vậy. Có lẽ 99% các bác trong diễn đàn dẫu biết sau 4 năm sẽ có suy thoái thì vẫn mua bán phình phường.

Có thể thấy từ việc đường cong lãi suất đảo ngược sẽ xuất hiện suy thoái là hiện tượng có thực, mỗi tội xác suất của nó gần như 5 ăn 5 thua, tung đồng xu cũng không cho kết quả sai lệch mấy. Tức về mặt địa lợi không có gì để nói nhiều.

2.Thiên thời

Thiên thời ở đây là tình hình kinh tế chung toàn thế giới, nhưng về mặt này xem ra còn hỗn loạn hơn. Đơn giản vì các chuyên gia tài chính thế giới còn đang cãi nhau như mổ bò xem có khủng hoảng hay ko? Bởi vì thị trường đang bước vào vùng đất chưa ai biết, nên mọi kết luận đưa ra đều là hơi sớm, đều là có tính phỏng đoán. Có 2 cơ sở cho kết luận đó:

Thứ nhất là đường cong lãi suất đảo ngược. Thống kê cho thấy có 8 lần đảo ngược sẽ dẫn đến suy thoái, và có 3 lần đảo ngược ko dẫn đến suy thoái khuyến mại thêm 1 lần ko thấy đường cong bị đảo ngược. Thế nhưng lần này có điểm khác biệt hẳn hoi : những lần trước đều xảy ra theo thứ tự lợi suất 2Y lớn hơn 10Y , sau đó mới tới lượt 3M lớn hơn 10Y. Thế nhưng lần này khác hẳn, 3M lớn hơn 10Y trước, còn đến ngày 29/3/2019 thì lãi suất 2Y vẫn nhỏ hơn 10Y. Tức theo tiêu chí tổng kết năm 2008 thì vẫn còn chưa dẫn đến suy thoái, chỉ theo tiêu chí mới nhất thì mới có khả năng dẫn đến suy thoái. Chính hiện tượng 3M cầm đèn chạy trước 2Y này mới khiến giới chuyên gia mắt tròn mắt dẹt chả hiểu tại sao lại xảy ra như thế, đơn giản đây là vùng đất chưa ai gặp, chưa ai đề cập tới.

Lí do thứ 2 nói rằng đây là vùng đất chưa khai phá bắt nguồn từ hành động của các ngân hàng Trung ương. Trong khi FED ra sức tăng lãi suất thì ngân hàng trung ương châu Âu ECB hay Nhật bản BoJ đều đang giữ lãi suất âm, tức gửi tiền tiết kiệm ở ngân hàng thì còn phải mất phí nhờ ngân hàng giữ hộ tiền. Còn lợi suất 10Y của trung quốc thì thấp hơn của mĩ. Đây đều toàn là những hiện tượng xưa nay chưa từng có, vì mọi người vốn mặc định rằng lãi suất của FED là thấp hơn các nước ngoài G7.

Lí do thứ 3 ko kém phần quan trọng. Bởi vì đây không phải là đường cong lợi suất như được định nghĩa trong Chỉ số các chỉ số kinh tế hàng đầu (LEI leading economic indicators) của Hội đồng Quản trị CB (Conference Board là tổ chức bao gồm 1200 tập đoàn từ 60 nước) thì khái niệm đường cong đó thực sự là xác định theo lãi suất Kho bạc 10 năm trừ đi lãi suất cho vay. Rõ ràng ở đây media đã bóp méo khái niệm đường cong lợi suất theo ý của mình để phục vụ cho mục đích nào đó

Tóm lại là trong khi các chuyên gia tài chính thế giới còn chưa định lượng được hiện tượng này, chưa thể dùng mô hình toán học để chứng minh thực tế thì chúng ta lại đã có cao thủ kịp nhảy ra phán rằng đây là tiền đề của khủng hoảng. Xin cao thủ đó nhận 3 vái của em.

3.Về mặt nhân hòa

Nhân hòa ở đây là nhắc tới chính sách do con người vạch ra. Nói thiên thời địa lợi là xét vấn đề từ góc độ lí thuyết. Còn nhìn từ góc độ thực hành và điều hành thì vẫn còn nhiều chuyện để nói hơn nữa. Đó là tác động của chính sách sẽ ra sao? Nếu hiện tượng trên chắc chắn dẫn tới khủng hoảng thì chả lẽ mr trump và chính phủ mĩ khoanh tay đứng yên chấp nhận số phận? Với tổng thống mĩ khác thì em ko biết, nhưng với tỉ phú trump thì chắc chắn ông ta sẽ tìm cách xoay xở. Theo em mr trump chính là “choose one 2016” của nước mĩ, tức là người được thời cuộc chọn.

Theo cách hành xử của mr trump, trong tay ông ta ít nhất còn 6 lá bài để chống lại cuộc khủng hoảng lần sau. Ít nhất thì ông ta sẽ thừa sức đẩy khủng hoảng ra sau năm 2024, tức nó sẽ chỉ xảy ra sau khi ông ta kết thúc nhiệm kì thứ 2 của mình

Chúng ta đều biết các Hiệp định tự do thương mại là những biện pháp trọng cung cực kì quan trọng, nó có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế còn mạnh hơn cả chính sách kích cầu nào đó. Đồng thời nó có tác dụng lan tỏa và lâu dài, trong khi kích cầu cứ hết tiền là tác động yếu đi rõ rệt. Và trong tay mr trump còn có hàng loạt lá bài kích thích nền kinh tế như vậy :

-FTA với EU

  • FTA với Nhật bản

  • FTA với Ấn độ

  • Thỏa thuận thương mại với Trung quốc

  • Quay lại tham gia vào CPTPP

  • Cải cách WTO

Trong các biện pháp trên, chỉ riêng FTA với Ấn độ, trung quốc và CPTPP sẽ giúp nước mĩ thông thương với non nửa dân số thế giới. Và chừng đó là quá đủ để kéo dài chu kì tăng trưởng kỉ lục này của nước mĩ. Còn việc thay đổi luật lệ của WTO tuy có hiệu ứng mạnh nhưng có lẽ quá trình đàm phán sẽ kéo dài bởi thành viên nào cũng mong muốn tranh thủ thêm lợi ích cho mình. Có lẽ kết cục thì những người sẽ phải chịu thiệt là Nga, BRICS ( trừ trung quốc), nam mĩ, châu Phi ……

Một yếu tố nhân hòa nữa là FED. FED ít nhất có thể giảm lãi suất đi 2 lần, qua đó mua cho nước mĩ thêm được 2 năm kéo dài tăng trưởng nữa.

Tóm lại câu chuyện “suy thoái sắp đến” về mặt thiên thời là vùng đất chưa ai biết đến, mọi người đều cùng phỏng đoán như nhau. Về mặt địa lợi là xác suất xấp xỉ như tung đồng xu. Với 2 góc độ này thì chiên za cũng giống như nhỏ lẻ, ưu thế không được là bao. Về mặt nhân hòa lại càng bất lợi cho ai nghĩ đến suy thoái. Bởi cả FED lẫn tổng thống mĩ còn có quá nhiều lá bài chống đỡ trong tay, và đều rất hiệu quả, rẻ tiền…

Kết luận : mr trump sẽ ra sức xoay sở để nước mĩ ko rơi vào tình trạng suy thoái trong nhiệm kì của ông ta. Và quan trọng là với việc khơi mào các cuộc chiến tranh thương mại, ông ta đã tự trang bị cho mình những vũ khí chống suy thoái cực kì rẻ tiền và đầy hiệu quả. Chỉ có các bác chim nhợn sẽ ko thik điều này

Tổng kết phiên giao dịch 20/6/2022

Thuỷ sản : ko có

Phân bón : BFC, D.C.M

Dầu khí : GAS, PSH,PVD,PVT, PVC,PVS

Tổng cộng con trâu trắng lại đi lau sàn 8 mã nữa, trong đó riêng dòng P đóng góp 6 mã. Kết quả là chúng ta phải tạm dừng tranh luận mất 35 ngày rùi hix hix. Được cái quĩ câu chuyện cuối tuần còn dư dùng

P/S con trâu trắng

Lại thêm 1 topic nữa bị con trâu trắng coi là rác rưởi và xúi thằng DHA xoá đi

Câu chuyện cuối tuần 41 (cũ)

Chém ró về FED

Thực ra em cũng chả bit nhiều về FED, nhưng đang rảnh rổi chờ chính phủ mĩ mở cửa trở lại thì em cứ liều mạng chém đại theo cách hiểu của mình.

Vừa qua mr trump liên tục tweet than phiền về FED, cứ như thể FED là kẻ chiên thọc gậy bánh xe vào công cuộc chấn hưng nước mĩ của ông ta. Ông ta có thực sự nghĩ vậy hay ko thì em ko bit. Nhưng có thể chắc chắn 1 điều rằng : ông ta đang biến FED thành hình nhân thế mạng. Nếu kinh tế mĩ phát triển, đó là do tài lãnh đạo của mr trump. Nếu suy thoái đến sớm, đích thị tội đồ là FED.

Có điều em nghĩ FED rơi vào cảnh ngậm đắng nuốt cay: đang ra sức giúp mr trump thì lại bị chính người mình giúp lên án. Vậy FED giúp đỡ mr trump thế nào? Trước hết , FED tạo ra 1 nhân tố rất quan trọng giúp mr trump kéo chỉ số DJ lên.

Chúng ta đều biết mr trump rất hay dùng chỉ số DJ làm thước đo thành tích trong nhiệm kì của ông ta, rằng DJ tăng là ông ta đang thành công. Đồng thời chúng ta cũng bit DJ đã tăng hơn 9 năm, sắp sửa tạo kỉ lục mới về tổng thọ mệnh. Thế nhưng suốt ngày media lại la lối rằng con bò này già quá rùi, vào lò mổ tới nơi rùi, rằng suy thoái sắp xảy ra. Vậy nếu muốn cho DJ tiếp tục tăng trưởng thì phải có dòng tiền mới đổ vào Wall Street, và FED giúp mr trump ở chính điều này.

Thứ nhất việc tăng lãi suất , mặc kệ mr trump nói gì, sẽ giúp nước mĩ thu hút tiền trên thế giới chảy vảo 3 sàn DJ. Thứ 2 là việc tăng lãi suất làm dẹt đường cong lợi tức. Đường cong lợi tức mà đi ngang thì lợi suất trái phiếu chính phủ 10 năm chả khác gì lãi suất 2 năm hay thậm chí là 3 tháng ( theo cách tính ưa thích của FED) . Tức mức chênh lệch lãi suất 10 năm- 3 tháng xấp xỉ bằng ko.

Một khi mức chênh = 0 kéo dài, hơi đâu mà gửi tiền vào trái phiếu nữa. Cứ để ở loại ngắn hạn để dễ cơ động sang chỗ nào đó an toàn tương tự mà có lợi nhuận cao hơn. Vậy là tiền rời khỏi hang ổ trái phiếu để nhảy vào hố cổ phiếu. Hiện chợ trái phiếu trị giá 100k tỏi trump, tổng trị giá cổ phiếu là 64 k tỏi trump. Nếu như hút được 18k tỏi trump từ trái phiếu sang cổ phiếu, DJ sẽ đạt tới con số 50.000 điểm vào năm 2024. Tiền vào mà chỉ số ko tăng thì hóa ra thành đổ hang chuột à. Vậy là FED chả đang giúp mr trump là gì?

Thứ hai việc tăng lãi suất cũng lùa tiền từ vàng sang. Suốt cả năm 2018, vàng tăng giảm theo chỉ số đồng bạc xanh. Khi chỉ số đồng bạc xanh lên 97, vàng nhảy vực về 1168. Nay chỉ số đồng trump giảm, vàng phi lên 1281. Năm 2019 ECB cũng sẽ chấm dứt QE và bắt đầu thu hẹp dịnh lượng QT từ tháng 9, vậy ưu thế về chỉ số của đồng trump sẽ ko còn mấy. FED tăng lãi suất sẽ giúp mấy con bọ vàng dễ dàng chạy theo đồng bạc xanh hơn.

Vậy FED liên tục tăng lãi suất có phải nhát búa chí mạng để đưa con bò già tăng trưởng vào lò mổ ko? Em nghĩ là ko, và mr trump thừa biết như vậy. Chỉ có mấy bác chim nhợn thì mừng húm, vội vàng mang suy thoái với khủng hoảng ra chém ró đến nước miếng tung bay xa 3 thước. Thế nhưng trong thực tế, mr trump còn quá nhiều lá bài để thúc đẩy tăng trưởng. Về mặt trọng cung, trước hết là các FTA. Cứ kí 1 FTA là mr trump lại có thể tweet là FTA đó sẽ tạo ra bao nhiêu việc làm, GDP tăng trưởng thêm bao nhiêu %. Nào là FTA với Anh, với châu Âu, với Nhật bản, với các nước trong hiệp định CPTPP tức trên thực tế đưa nước quay trở lại TPP. Kí 1 đống FTA như vậy mà ko nâng được GDP một vài % thì em đi đầu xuống đất.

Và trong các FTA đó mr trump chắc chắn cài viên thuốc độc ngăn chặn tàu khựa giống như NAFTA 2.0. Đại khái nước nào tự động kí FTA với tàu thì quên ngay và luôn FTA kí với mĩ. Hãy chọn đi, người ta bỏ phiếu cho thị trường nào đây? Qua viên thuốc độc đó, mr trump sẽ có thêmlợi thế để ép tàu khựa kí thỏa thuận kinh tế với mình.

Thực ra em nghĩ nếu chỉ riêng về vấn đề thuế thì tàu khựa đã xuống thang đàm phán xong xuôi với nước mĩ từ lâu rồi. Vấn đề là tàu khựa sợ mr trump được đằng chân lânđằng đầu, xong việc này lại đòi hỏi thêm chuyệnn khác bởi chúng cũng luôn hành động như vậy với các nước láng giếng. Do đó em cho răng thương chiến mĩ tàu sẽ còn kéo dài, chỉ là lúc bùng lên , lúc dịu đi. Thế nhưng mỗi một thỏa thuận mĩ tàu sẽ có tác động khá nhớn đến đà tăng trưởng của nước mĩ, đó là viên thuốc thần chữa căn bệnh suy thoái của con bò già Wall Street.

Bên cạnh giải pháp FTA và giải quyết thương chiến mang tính trọng cung kia, trong tay nước mĩ còn nhiều biện pháp kích cầu. Đầu tiên là cắt giảm giảm thuế cho tầng lớp trung lưu. Đây là giảm thuế cho các hộ gia đình chứ ko phải giảm thuế cho doanh nghiệp, do đó sẽ rất khó cho đảng Dân chủ để bác bỏ nó. Vậy là đảng Dân chủ sẽ chỉ còn lá bài lấy tiền đâu ra để bù đắp chỗ giảm thuế? Nói lạ, từ thuế nhập khẩu hàng hóa tàu chứ sao. Và đó cũng là một phần nguyên nhân khiếncho thương chiến mĩ tàu sẽ kéo dài. Tức cho dù 2 bên đi đến thỏa thuận với nhau, kiểu gì cũng sẽ còn những mặt hàng bị áp thuế cao hơn. Em dự đoán mặt hàng nào ra nhiều viêc làm cho nước mĩ thì sẽ bị nâng thuế.

Giải pháp kích cầu tiếp theo là chi 1500 tỏi trump để cải tạo hạ tầng nước mĩ. Nếu như việc cải cách thuế năm 2017 có cái đểu là những bàng theo đảng cộng hòa hưởng lợi, còn bang theo đảng dân chủ chịu thiệt do sự biến động sắc thuế. Thì lần cải tạo hạ tầng này sẽ phân bổ công bằng hơn. Tức ngân sách các bang đều có tiền, có thêm việc làm. Để xem các nghị sĩ dân chủ có hào hứng với triển vọng này ko?

Với hàng loạt biện pháp cung cầu như vậy, em ko tin rằng suy thoái nước mĩ sẽ đến trong 3 năm tới, kể cả khi kinh tế thế giới hỗn loạn. Vì sao ử? Bởi sự tăng trưởng lần này ở kinh té mĩ có sự đóng góp rất nhớn từ ngành khai thác dầu và lọc hóa khí. Ngành khai thác dầu thì khỏi nói, nó là mặt hàng phòng thủ. Tức cho dù kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng thì người ta vẫn phải đổ xăng vào xe để đi làm, đi chợ, đi thăm người thân hay đi tán tỉnh nhau. Còn với lọc hóa khí sao vẫn ko sợ suy thoái? Vì giá thành sản phẩm của nó chỉ = 1/3 đến ½ so với mặt hàng tương tự nhưng làm từ dầu thô hay than đá. Vậy nếu khủng hoảng thì mấy nhà máy lọc dầu ở châu âu chết trước đã, đám ấy sẽ đổ bệnh lăn ra đầu tiên. Và khi mấy con bệnh đó nằm liệt thì tăng thêm ko gian sinh tồn cho lọc hóa khí nước mĩ.

Mảng thứ 3 mà FED đang giúp mr trump bắt nguồn từ chính nhiệm vụ của FED. FED có 3 vai trò : định lượng chỉ số kinh tế, dự báo, chốt mục tiêu. Với việc nâng hạ lãi suất, FED đã đưa ra định lượng chỉ số kinh tế để các doanh nghiệp căn cứ vào đó mà nâng lên hạ xuống xem nên đầu tư vào đâu, đại khái là chọn giỏ bỏ thóc. Chính vì thế , mỗi lần FED điều chỉnh lãi suất là đa phần các NHTW buộc phải hành động theo. Thế nhưng ko phải nền kinh tế và hệ thống ngân hàng của quốc gia nào cũng đủ mạnh để chống chọi với việc tăng lãi suất. Vậy là bọn họ ko dám tăng lãi suất theo và đành trơ mắt nhìn dòng tiền rời bỏ nước mình chảy về mĩ. FED giúp mr trump ở chỗ này là vì thế.

Điều tiếp theo mà FED giúp mr trump là từ tính năng dự báo: với việc duy trì đà tăng lãi suất, FED đã đưa ra 1 thông điệp hết sức rõ ràng là nền kinh tế mĩ vẫn còn mạnh nhắm. Mạnh tới nỗi FED ưu tiên làm nguội nền kinh tế = cách tăng lãi suất, FED ko nhìn thấy bóng đen suy thoái nào trong vòng 24-36 tháng tới. Và nếu trong năm 2019 mà FED có lần tăng lãi suất nào đó thì chẳng khác gì đưa ra nhận định : đến 2022 sẽ vẫn chưa có suy thoái ở mĩ nhé, yên tâm rót tiền vào đây đê. Và các quĩ đầu cơ sợ hậu quả kinh tế tàu giảm giảm tốc, e ngại Brexit hạ cánh cứng, sợ hậu quả chính phủ dân túy Italia vung tay quá trán khi lập ngân sách hàng năm, sợ hậu quả chính phủ Syria tấn công Idlip khiến dòng người tị nạn mới tràn vào châu Âu bla bla bla. Thôi thì cứ vào nước mĩ trú ẩn đã.

Điểm cuối là chốt mục tiêu: chọn thúc đẩy tăng trưởng và kiềm chế bong bóng quá mức hay phòng ngừa lạm phát, chống nguy cơ suy thoái. Và với việc tăng lãi suất, FED đã chọn mục tiêu rất rõ ràng : FED chỉ sợ tăng trưởng quá mức dẫn tới bong bóng, để khi bong bóng bục thì có giời đỡ như năm 2008. Bài học năm 2008 là mr Greenspan đã tăng lãi suất quá chậm. Nếu ông ta tăng lãi suất sớm 2 năm tức từ 2002 thì bong bóng BĐS đã bị xì hơi và sẽ ko có khủng hoảng tài chính 2008. Đống thời cũng rút kinh nghiệm từ khủng hoảng 2008, rất có thể năm 2019 FED tăng lãi suất thì năm 2020 đã lại giảm rùi. Như vậy với việc vẫn tăng lãi suất lần này, FED đã ngầm nói rằng nếu có suy thoái thì phải chờ 6 năm nữa đê. Tức xét từ tiêu chí lựa chọn mục tiêu thì thời điểm suy thoái lại còn bị đẩy xa hơn nữa. FED chả đang giúp mr trump trấn an nhà đầu tư và thu hút vốn vào Wall Street là gì.

Vậy tại sao DJ giảm mạnh quanh thời điểm FED tăng lãi suất? Thực ra Wall Street đã nhận mệnh từ lâu, bọn họ mặc định công nhận rằng FED phải tăng lãi suất trong phiên họp tháng 12/2018. Nếu như FED ngừng tăng lãi suất lần này thì DJ mới đổ dốc vì thị trường sợ FED đánh mất tính độc lập. Đó mới là nỗi lo bao trùm.

Do đó nguyên nhân đích thực khiến DJ nhảy vực sau khi FED họp xong là vì nỗi thất vọng khi FED vẫn thu hẹp định lượng QT, tức mỗi tháng vẫn bắt Wall Street phải nhè ra 50 tỏi trump để trả cho người đóng thuế mĩ. Mất ăn mỗi năm 600 tỏi như vậy, DJ ko lăn ra giãy đành đạch rồi nhảy vực về 21k mới là chiện lạ.

Tất nhiên sau khi khóc lóc ăn vạ xong thì vẫn phải kiếm xiền, tăng tài sản trong sổ sách mới là vương đạo. Và DJ sẽ tăng trở lại lên 30k điểm trong năm 2019 này. Tăng 50% thì có vẻ cao, nhưng nếu xét từ đỉnh vào tháng 10/2018 thì đạt 30k cũng chỉ là tăng 12% mà thôi Hoặc nhẹ nhàng hơn thì DJ đạt 33.000 điểm cuối năm 2020, phân bổ ra sao cho 2019 và 2020 thì tùy các bác.

Thôi thì đầu năm em cứ chém ró về FED như vậy. Cao thủ nào muốn nhắc tới khủng hoảng hay suy thoái tùy ý, tiểu nữ chỉ xin phép ngoảnh mặt che miệng cười chút xíu.

1 Likes

Phiên giao dịch 21/6 lại chứng kiến bộ 3 PVC,PVD,PVS lau sàn. Riêng bé POW cũng bị vạ lây với con trâu trắng nên cũng lăn ra sàn nốt

Vậy là chúng ta sẽ còn ngừng mọi thứ trong 39 ngày

Chúng ta tiếp tục với topic bị con trâu trắng coi là rác rưởi của diễn đàn và xúi thằng DHA xoá đi.

Câu chuyện cuối tuần 39 (cũ)

Phiếm bàn sắt thép xoay quanh HPG

Năm 2018, sản lượng sắt thép của tàu khựa là 900 triệu tấn. Với phần còn lại của thế giới, từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2018, sản xuất thép đạt tổng cộng 619 triệu tấn, tăng 20 triệu tấn tương đương 3%. Sự gia tăng sản lượng thép quốc tế từ năm 2017 đến 2018 chủ yếu đến từ Iran, Brazil, Ấn Độ, Việt Nam, mĩ và các nước khác. Người ta dự báo năng lực sản xuất thép mới toàn cầu trong giai đoạn 2018-2020 là khoảng 50 triệu tấn, trong đó 36 triệu tấn sẽ được hoàn thành trong năm 2018, vì vậy mức tăng sản xuất ở trên thế giới ko kể tàu khựa là tương đối rõ ràng. Với mức tăng trưởng sản lượng chưa tới 3%/ năm, tối độ này rõ ràng thấp hơn tăng trưởng nhu cầu. Cầu vượt cung sẽ dẫn tới sự cải thiện dần dần về giá sắt thép, và HPG sẽ hưởng lợi từ xu thế đó.

Vậy nhân tố gây bất ổn tới giá sắt thép chỉ còn lại tàu khựa. Năm 2018, nước này đã hoàn thành việc cắt giảm 150 triệu tấn thép dư thừa, điều đó đã khiến ngành sắt thép tàu chuyển từ thua lỗ trong giai đoạn 2015-2016 thành có lãi. Trong 10 tháng đầu năm, với giá thép > 4000 CNY/ tấn, thậm chí nhiều tháng có giá 4500 CNY/ tấn, ngành sắt thép tàu lãi xấp xỉ 1000 CNY/ tấn.

Nếu như tàu khựa tiếp tục chính sách cắt giảm sản lượng, chủ yếu nhằm vào thép làng nghề và nhà máy công nghệ cũ thì cả thế giới được nhờ. Đến chính người tàu cũng phải kinh hãi với đám thép thổ phỉ kia, khi mà nhiều lúc sản phẩm thép của chúng xốp giòn hơn bánh bích qui. Bởi vì để hạ giá thành, chúng tống đám sắp thép phế liệu vào lò nấu chảy ko theo công thức nào. Chính đám thổ phỉ đó sống rất dai vì giá thành thấp ko tưởng, qua đó đạp cả làng sắt thép ngã dúi dụi.

Bỏ lại đám thổ phỉ sau lưng, có thể sơ bộ liệt kê các yếu tố khác ảnh hưởng tới giá sắt thép tàu:

-thương chiến mĩ tàu

  • cắt giảm sản lượng sắt thép

  • môi trường và thời tiết

  • tỉ giá CNY, úc, Brazil,

  • giá quặng sắt và chỉ số Platts

  • sản lượng 4 chị em

  • cước vận chuyển,

  • chính sách BĐS tàu

  • nhu cầu quặng india

  • hướng gió

  • mỏ gặp nạn : lụt, nổ băng chuyền

  • lượng tiêu thụ ô tô

  • hiệu quả khu vực,

  • giá than và cốc

  • chi phí vận chuyển nội địa

  • giá điện và khí

Nói chung có hơn 30 nhân tố định tính ảnh hưởng tới giá sắt thép tàu với hơn 50 chỉ số định lượng. Các bác chỉ việc nạp dữ liệu định lượng vào cho con robot nó chạy là có thể vẽ được sơ bộ xu hướng giá tương lai của sắt thép tàu. Sau đó thi thoảng cập nhật thông số hàng ngày để làm mịn biến động là các bác có được đường cong khá trơn tru

Điểm qua các nhân tố chúng ta có thể chia thành khối cung và cầu, tương quan giữa 2 khối này tác động lên giá sắt thép tàu về mặt đầu vào hay đầu ra.

Về cơ bản thì các yếu tố cung cầu mọi người đều nắm được, nên em ko nói sâu nữa. Em chỉ mổ xẻ vài chi tiết ảnh hưởng tới giá thành đầu vào và đầu ra của sắt thép tàu thôi.

Giá thành đầu vào trước hết gồm giá quặng sắt và giá than với cốc. Hiện do chính sách môi trường nên tàu khựa đang nâng dần tỉ lệ lò cao dùng điện và khí để nấu chảy thép. Do đó giá điện khí cũng có tác động tới giá sắt thép tàu, theo chính sách môi trường thì tỉ trọng khối này sẽ dần tăng, đến 1 mức nào đó sẽ ảnh hưởng tới mặt bằng giá của giá sắt thép tàu. Nói cho đúng hơn là sẽ nâng dần giá đáy của sắt thép tàu. Về lâu dài, HPG sẽ là mã hưởng lợi lớn nhất với xu thế này. Hiện tỉ lệ điện khí mới trên 10%, một khi tỉ lệ này nâng lên 30-40%, HPG có thể kê cao gối ngủ kĩ. Và em đoán rằng khối ngoại nắm 40% HPG ko chịu nhả ra chính là từ nhân tố này.

Có hàng loạt yếu tố ảnh hưởng tới mặt bằng giá quặng sắt thế giới. Nhu cầu tăng dần của India đối với quặng sắt cũng tác động tích cực tới giá quặng. Danh hiệu công xưởng thế giới đang dịch chuyển dần sang khu vực India nhờ mặt bằng lương thấp. Ví dụ lương trung bình ở Srilanca là 95 trump/ tháng, Việt nam là hơn 200, tàu khựa là 600 trump/ tháng. Với mặt bằng lương đó, có thể hình dung tiềm năng phát triển tiêu thụ sắt thép ở India.

Có 4 cty quặng sắt lớn nhất thế giới được gọi là 4 chị em, gồm Vale, Rio Tinto, BHP Billiton và Fortescue FMG. Vừa qua khu vực khai thác quặng quặng của 4 cty này rơi vào mùa mưa lũ ngập lụt khiến gián đoạn nguồn cung làm giá quặng tăng hồi tháng 10. Khi hết thiên tai, cung quặng khôi phục khiến giá giảm nên tạo điều kiện cho giá thép giảm. Vậy là chim nhợn bay rợp trời hô giá thép rơi, HPG lâm nguy. Thế nhưng chim nhợn ko bit rằng, ngay cả khi giá thép giảm, HPG có 1 van an toàn rất hữu hiệu. Đó là qui trình kĩ thuật cho phép HPG có thể sử dụng các loại quặng với hàm lượng thấp hơn, giá thành đầu vào thấp hơn 15-20% cũng là yếu tố cạnh tranh đáng chú ý.

Thế nhưng chim nhợn ko biết 1 điều : 2018 chính là năm hoàn chỉnh thiết kế mỏ của 4 chị em, hoàn thành chu kì đầu tư. Vậy là từ 2019, sản lượng quặng chấm dứt thời kì tăng như vũ bão. Người ta sẽ ko còn được nghe kế hoạch tăng sản lượng hàng 200-300 triệu tấn/ năm nữa. Trong nửa đầu năm 2018, sản lượng của Rio Tinto tăng 8,24 triệu tấn, BHP Billiton tăng 7,3 triệu tấn và Vale tăng 660 k tấn, còn sản lượng FMG giảm 6,8 triệu tấn. Tổng sản lượng của bốn cti mỏ lớn trong nửa đầu năm tăng 9,42 triệu tấn. Theo kế hoạch sản xuất mỏ, dự kiến sẽ không có sự gia tăng đáng kể nào ở Rio Tinto, BHP Billiton và FMG trong nửa cuối năm nay. Tăng trưởng sản lượng sẽ chủ yếu đến từ Vale, khoảng 22,8 triệu tấn. Ước tính, sản lượng của bốn cti mỏ lớn trong năm 2018 sẽ tăng khoảng 32 triệu tấn mỗi năm.

Một khi giảm cung, giá quặng sẽ tránh bị rơi thảm đến 35 trump/ tấn như hồi 2016.Xu thế quặng sẽ dần tăng, ít nhất là ko sập mạnh sẽ đỡ cho giá thép.Và những dự báo giá sắt thép giảm tiếp 15%sẽ trở nên nực cười. Tất nhiên nước lên thì bèo lên, nhưng HPG chính là mã ngành tôn thép đối phó tốt nhất với tình trạng giá thành đầu vào tăng. Thậm chí HPG còn được hưởng lợi khi đầu vào tăng.

Đặc thù chính sách môi trường của tàu đã khiến giá sắt thép chịu ảnh hưởng của nhân tố quái dị như hướng gió. Đó là khi gió thổi từ nhà máy về thành phố cấp 1 cấp 2, lập tức nhà máy phải tự động dừng lò nghỉ việc. Đương nhiên đó là lúc sản lượng cung giảm, giá thành có xu hướng nhích lên. Vậy là chúng ta chỉ việc vào CNN xem thời tiết là ít nhiều đoán ra giá sắt sắp tăng.

Còn biến động tỉ giá cũng vậy. Khi đồng trump mạnh lên, đồng real Brazil giảm , đồng đô la úc giảm khiến quặng rẻ hơn. Nhưng đồng CNY cũng mất giá lại khiến quặng đắt hơn. Do đó tương quan biến động những đồng tiền này ảnh hưởng tới giá quặng và qua đó, tới giá thành sắt thép.

Về chính sách BĐS của tàu là vi diệu nhất. Hiện TW thì muốn giảm giá nhà đất, xiết nguồn tiền đổ vào BĐS tàu khựa, và đó là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới giá thép. Có điều năm 2021 tàu sẽ kỉ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản. Để long trọng cho lễ kỉ niệm, em đoán là ngành BĐS bên đó sẽ ko thể lúi xùi. Hơn nữa, năm 2018 PBOC đã 4 lần tiến hành nới lỏng dự trữ bắt buộc. Kiểu gì thì cũng sẽ có 1 dòng tiền chảy vào BĐS, qua đó đỡ cho giá sắt thép.

Ngoài ra, ngân sách các tỉnh cũng phụ thuộc rất lớn vào khoản thu từ tiền bán đất , từ BĐS. Nếu bị cắt mất bầu sữa này, thành tích của các quan tỉnh sẽ kém long lanh, thậm chí khoản nợ xấu cửa địa phương có khi lại trồi lên thành cơn dịch bệnh. Ít nhất là hết mùa đông này, ngành XD bên tàu lại hoạt động tích cực. Giá sắt thép bên tàu lại cá hồi

Chém ró về từng nhân tố thì câu chuyện dài quớ, tốn time của các bác đọc. Nên em chỉ đi sâu vào hiệu quả sản xuất sắt thép của từng khu vực ở tàu.

Thôi thì em trích dẫn thông số từ Hội nghị sắt thép tàu ngày 10/12 vừa rồi. Thông thường, chi phí cho mỗi tấn thép ở khu vực đông bắc cao hơn 150 nhân dân tệ so với Đông Trung Quốc, cao hơn 150-200 nhân dân tệ so với Nam Trung Quốc, và vẫn có vấn đề về thương hiệu ở các nguồn tài nguyên ở phía đông bắc, do đó có sự chênh lệch giá của hiệu ứng thương hiệu 400 nhân dân tệ. Nếu lợi nhuận gộp trên mỗi tấn thép ở Đông Trung Quốc giảm xuống 400-500 nhân dân tệ, các nhà máy thép ở Đông Bắc sẽ phải đối mặt với việc ngừng sản xuất. Một khi sản lượng của khu vực Đông Bắc giảm, nó cũng sẽ hỗ trợ lợi nhuận thép ở Đông Trung Quốc và Nam Trung Quốc.

Một khi lợi nhuận gộp trên mỗi tấn thép ở Đông Trung Quốc giảm xuống 400-500 nhân dân tệ, khu vực đông bắc sẽ giảm sản lượng và khu vực Đông Trung Quốc sẽ hình thành một điểm cân bằng khác. Do đó, vào mùa cao điểm, xác suất lợi nhuận gộp trên mỗi tấn thép ở Đông Trung Quốc là trên 500 nhân dân tệ. Người ta dự báo 500-700 nhân dân tệ sẽ là lợi nhuận gộp tương đối cân bằng trên mỗi tấn thép, khoảng 500 nhân dân tệ trong mùa vụ và khoảng 700 nhân dân tệ trong mùa cao điểm.

Tại sao giá thép dự kiến ​​sẽ dao động trong khoảng từ 3.000 đến 4.000 nhân dân tệ trong năm 2019? Bởi vì nếu giá thép ở Đông Trung Quốc dưới 3.000 nhân dân tệ, sẽ không có lợi nhuận ở Đông Bắc. Nếu giá thép ở Đông Trung Quốc thấp hơn 3.200 nhân dân tệ, thép phía đông bắc sẽ chịu sự kháng cự ở miền Nam, điều này sẽ dẫn đến một mức độ đình chỉ sản xuất nhất định. Chi phí tại Tân Cương cao hơn. Nếu giá thép ở Đông Trung Quốc thấp hơn 3.200 nhân dân tệ, nó cũng sẽ khiến các nhà máy thép ở Tân Cương ngừng sản xuất. Do đó, giá thép dưới 3.200 nhân dân tệ rất bất lợi cho thị trường, điều này sẽ dẫn đến việc giảm mạnh về phía cung.

Nếu khu vực phía đông bắc có lợi nhuận gộp 100-300 nhân dân tệ, giá sợi tương ứng là 3800-4000 nhân dân tệ. Nếu giá thép thấp hơn 3600 nhân dân tệ, thép ở khu vực đông bắc sẽ bị chặn. Do đó, 3000-4000 nhân dân tệ là một mức giá hợp lý cho chủ đề. Giá thép trong giai đoạn sau có cao hơn 4.000 nhân dân tệ hay không phụ thuộc vào nhu cầu có linh hoạt tốt hơn hay không. Trong tình hình nguồn cung cao hiện nay, thị trường sẽ không kỳ vọng quá nhiều trong 3 tháng tới. Và sau tết, sẽ có nhà máy ko chịu nổi nhiệt với giá thấp mà đành giãn sản xuất làm giảm dư cung, giá thép được cải thiện.

Túm váy lại : giá thép bên tàu hiện đang rớt mạnh về vùng 3500-3700, tức cách ngưỡng 3200 ko còn xa. Và khả năng giảm giá đó thì HPG thừa sức kháng cự , còn HSG và NKG hơi khó khăn chút xíu. Tuy nhiên, nếu phải chịu lỗ đi làm culi ko công thì sẽ có nhiều nhà máy phải giảm sản lượng. Nên khi đám chim nhợn HPG chỉ dùng yếu tố giảm giá thành thì em mỉm cười, cứ để họ hót vang.

Kiến thức của bác bao la , tôi cần thời gian mới hấp thụ từ từ được :smiling_face_with_three_hearts:
Chúc bác ngày mới tốt lành!

Vào nhận hàng P của bác đi kìa. Tôi đã nói Bsr giá 3x khi giá dầu 12x đô là đỉnh mà bác còn bảo chim lợn

Ko sao b,tt xấu thì hạ tỉ trọng thôi.cuối tháng 7 mới nói chuyện đúng sai dc.

Phân dầu khí cảng lập đỉnh rồi. Chờ tháng 7 thì chiết khấu thêm vài chục % nữa

1 Likes

Tiền đâu mà ôm lắm thế,tôi cầm bsr với pvt thôi.cuối tháng nhặt thêm ít pvd,pvs.khi nào ra bctc quý 2 t với b nc tiếp nhé

Vãi. Ra bctc thì còn gì nữa đâu bác. Cổ phiếu nó chạy trước rồi thường người ta mua Cp đã tính đến kỳ vọng vài quý rồi bác. Bác mới đầu tư thì phải